Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A

BẢN ÁN 71/2019/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN

Trong ngày 09 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 147/2019/TLST-HNGĐ ngày 02/4/2019 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 126/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/5/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 85/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13/6/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị T , sinh năm 1987 (có mặt). Địa chỉ: ấp V, xã V, huyện V, thành phố C.

2. Bị đơn: ông Lê Văn Đ , sinh năm 1986 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp T, xã V, huyện T, tỉnh A .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai ngày 23/4/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị T trình bày: bà T với ông Đ tiến đến hôn nhân vào năm 2004, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, thành phố C ngày 08/4/2011. Thời gian đầu bà T và ông Đ sống chung nhà cha mẹ chồng và sinh được hai con chung tên Lê Nguyễn Tố X, sinh ngày 17/02/2006 và Lê Nguyễn Hùng P , sinh ngày 22/11/2007. Tuy nhiên, do bà T phải chăm sóc hai con nhỏ, ông Đ thì không lo làm ăn nên kinh tế gia đình gặp khó khăn, từ đó vợ chồng thường cãi vã nhau. Đến năm 2015 thì mâu thuẫn giữa bà T và ông Đ trầm trọng nên bà T dẫn hai con về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Trong suốt thời gian sống ly thân, ông Đ không đến thăm con và không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Quá trình chung sống bà T và ông Đ không có tài sản chung và không có nợ chung. Nay giữa bà T và ông Đ không còn tình cảm nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết như sau: về hôn nhân, bà T yêu cầu được ly hôn với ông Đ; về con chung, do cháu Lê Nguyễn Tố X và Lê Nguyễn Hùng P  đang sống chung với bà T nên bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung và nợ chung: không có.

Bị đơn ông Lê Văn Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình - ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn ông Lê Văn Đ đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp T, xã V, huyện T, tỉnh A , nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ ông Lê Văn Đ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa. Tuy nhiên, các lần triệu tập, ông Đ đều vắng mặt. Do vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ.

[3] Về nội dung: bà Nguyễn Thị T và ông Lê Văn Đ chung sống với nhau từ năm 2004, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, được Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, thành phố C cấp giấy chứng nhận kết hôn số 47, ngày 08/4/2011. Vì vậy, đây là hôn nhân hợp pháp phù hợp với quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

[4] Xét, yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị T thấy rằng, bà T với ông Đ chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu. Đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, bà T cho rằng ông Đ không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ, con nên không còn tình cảm vợ chồng và đã sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay.

Kể từ khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho bị đơn ông Lê Văn Đ, tạo điều kiện cho ông hàn gắn tình cảm vợ chồng với bà T. Tuy nhiên, ông Đ không đến tham gia các phiên hòa giải và cũng không có văn bản nào thể hiện nguyện vọng muốn được chung sống với bà T. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông Đ mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không Đ được. Do đó, áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị T.

[5] Về quan hệ con chung: bà T và ông Đ có hai con chung tên Lê Nguyễn Tố X, sinh ngày 17/02/2006 và Lê Nguyễn Hùng P , sinh ngày 22/11/2007. Bà T yêu cầu được nuôi hai con, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc giao con cho ai nuôi cần xem xét quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Cháu X và cháu P đang sống chung với bà T. Đồng thời, tại biên bản ghi nguyện vọng của cháu X và cháu P ngày 23/4/2019 thì các cháu muốn được sống với mẹ. Do vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần của cháu X và cháu P, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên chấp nhận yêu cầu của bà T; giao cháu X và cháu P cho bà Nguyễn Thị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Bà T không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Bà T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: không có.

[7] Do bà Nguyễn Thị T yêu cầu giải quyết ly hôn nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 24 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T.

1. Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Lê Văn Đ. Giấy chứng nhận kết hôn số 47, ngày 08/4/2011 của Ủy ban nhân dân xã V, huyện V, thành phố C không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: bà T và ông Đ có 02 con chung tên Lê Nguyễn Tố X, sinh ngày 17/02/2006 và Lê Nguyễn Hùng P, sinh ngày 22/11/2007.

- Giao cháu Lê Nguyễn Tố X và Lê Nguyễn Hùng P cho bà Nguyễn Thị T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục (cháu X và cháu P đang sống chung với bà T). Ông Lê Văn Đ không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Bà Nguyễn Thị T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Lê Văn Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, của cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về quan hệ tài sản: không có.

4. Về nợ chung: ghi nhận bà Nguyễn Thị T xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án này có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà Nguyễn Thị T và ông Lê Văn Đ vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: bà Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000082 ngày 02/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh A .

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2019/HNGĐ-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn

Số hiệu:71/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về