TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 71/2018/HS-ST NGÀY 31/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 10 năm 2018 tại Hội trường Nhà văn hóa Khu phố 2, Phường 2, thành phố Đông Hà Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Nguyễn Công H (tên gọi khác: Tý); sinh ngày: 01/01/1994 tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Thôn T Đ, xã CT, huyện C L, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 06/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Nguyễn Ngọc H, sinh năm: 1962; Nghề nghiệp: Buôn bán; Con bà: Hoàng Thị X, sinh năm: 1965; Nghề nghiệp: Buôn bán; Cả hai hiện trú tại: Thôn T Đ, xã C Th, huyện C L, tỉnh Quảng Trị; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án; Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/6/2018 tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Quảng Trị, có mặt tại phiên tòa.
2. Họ và tên: Nguyễn Khắc T (tên gọi khác: Lắc); sinh ngày: 24/06/1996 tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Thôn T Đ, xã C T, huyện C L, tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông: Nguyễn Tùng L, sinh năm: 1968; Nghề nghiệp: Làm nông; Con bà: Trương Thị Mỹ L, sinh năm: 1974; Nghề nghiệp: Làm nông; Cả hai hiện trú tại: Thôn T Đ, xã C T, huyện C L, tỉnh Quảng Trị; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; Vợ, con: Chưa có; Tiền án; Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/6/2018 đến ngày 18/6/2018, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Văn V, trú tại: Thôn A P 2, xã Ca N, huyện C L, tỉnh Quảng Trị, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 23 giờ 10 phút ngày 09/6/2018, tại phòng trọ số 2 nhà trọ Tiên An (thuộc Khu phố 8, Phường 1, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị), Công an thành phố Đông Hà bắt quả tang Nguyễn Công H và Nguyễn Khắc T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng.
Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 09/06/2018, H điện thoại rủ Tân đi mua ma túy về cất giấu để sử dụng, T đồng ý và dùng xe máy nhãn hiệu Exiter mang BKS 74G1-11372 (xe của ông Võ Văn V - trú tại thôn Phương An 2, xã Cam Nghĩa, huyện Cam Lộ) đến chở H. Trên đường đi, H gọi điện thoại cho 01 người thanh niên tên Mao (không rõ địa chỉ) hỏi mua 07 viên ma túy, Mao đồng ý bán với giá 600.000 đồng và hẹn đến nhà nghỉ Thanh Thúy (ở Phường 4, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị) để giao ma túy. Khi đến điểm hẹn, H vào trong gặp Mao để mua ma túy còn Tân đứng ngoài đợi. Sau khi H mua được ma túy, cả hai đi đến nhà trọ Tiên An thuê phòng trọ số 02 để cất giấu và sử dụng ma túy. H và T vừa sử dụng hết 01 viên ma túy thì bị Công an thành phố Đông Hà kiểm tra và bắt quả tang thu giữ 06 viên nén.
Tại bản Kết luận giám định số 371/KLGĐ ngày 14/06/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: 06 viên nén thu giữ được ở trên có tổng khối lượng là 0,6138g, là ma túy loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 73/QĐ/CT-VKS ngày 03/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đã truy tố các bị cáo Nguyễn Công Hi và Nguyễn Khắc T về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Công H từ 18 đến 21 tháng tù.
- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 61 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Khắc T từ 14 đến 17 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.
[2] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng đã thể hiện đủ cơ sở kết luận: Ngày 09/6/2018, Nguyễn Công H và Nguyễn Khắc T đã có hành vi mua 07 viên nén màu hồng là ma túy mục đích để sử dụng, hai bị cáo sử dụng hết một viên thì bị phát hiện, bắt giữ, thu giữ 06 viên còn lại được giám định là ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,6138g . Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự điều luật có khung hình phạt tù từ một năm đến năm năm.
[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, là nguyên nhân gây nên các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, gây mất trật tự trị an địa phương và tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc, tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo nên các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” quy định tại Điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Khắc T đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại Ban chỉ huy quân sự Huyện đảo Cồn Cỏ và được tặng danh hiệu “Chiến sỹ tiên tiến” nên bị cáo được áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Đối với ý kiến của Kiểm sát viên đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại Điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo T. Thấy rằng, các loại tội phạm về ma túy đều gây nguy hại rất lớn cho xã hội. Trong vụ án này, khi H rủ T sử dụng ma túy T đã đồng ý và mượn xe mô tô chở H đi lấy ma túy, T trực tiếp thuê phòng, chi trả tiền thuê phòng và làm công cụ sử dụng ma túy. Vì vậy không có cơ sở để áp dụng tình tiết giảm nhẹ nêu trên.
[4] Xét vai trò và mức độ tham gia tội phạm của từng bị cáo thấy rằng bị cáo H là người giữ vai trò khởi xướng, rủ rê bị cáo T mua ma túy sử dụng, chi trả tiền mua ma túy và là người trực tiếp đi lấy ma túy. Bị cáo Tân sử dụng xe chở bị cáo H đi lấy ma túy, thuê phòng, chi trả tiền thuê phòng và làm công cụ để sử dụng ma túy. Căn cứ vào mức độ phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần xử phạt bị cáo H ở mức hình phạt cao hơn và cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Đối với bị cáo T nhân thân tốt, có nghề nghiệp và nơi cư trú rỏ ràng vì vậy không cách ly ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng răn đe và giáo dục.
[5] Về vật chứng và tài sản tạm giữ:
- Một điện thoại di động hiệu TTPLUS G101 của Hiệp;
- Một điện thoại di động hiệu FPT của Tân;
- 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng của Tân.
Hai điện thoại trên đều sử dụng vào việc liên lạc để sử dụng ma túy và tờ tiền 1.000 đồng dùng làm công cụ sử dụng ma túy cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
- 01 bì niêm phong đựng bao gói và 0,2472 g ma túy còn lại sau giám định ký hiệu MT111 và 01 võ chai nhựa không có giá trị sử dụng buộc tịch thu và tiêu hủy.
Đối với xe máy nhãn hiệu Exiter mang BKS 74G1-11372 của ông Võ Văn V để tại nhà T, T đã lấy đi nhưng ông V không biết Tân sử dụng vào việc đi mua và sử dụng ma túy nên đã trả lại cho ông V, tại phiên tòa ông viễn không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.
[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Công H (tên gọi khác: Tý), Nguyễn Khắc T (tên gọi khác: Lắc) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
- Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Công H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm 09/6/2018.
- Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Khắc T 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Khắc T cho Ủy ban nhân dân xã Cam Thành, huyện Cam Lộ tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã Cam Thành trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về xử lý vật chứng và tài sản tạm giữ: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:
- Tịch thu và tiêu hủy một phong bì niêm phong đựng bao gói ký hiệu MT111 và 01 võ chai nhựa.
- Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại động hiệu TTPLUS G101; 01 chiếc điện thoại di động hiệu FPT và 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng.
Vật chứng và tài sản tạm giữ hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/10/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.
4. Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Công H và Nguyễn Khắc T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Các bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 71/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 71/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về