TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ BÌNH, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 71/2018/HS-ST NGÀY 18/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18/7/2018 tại hội trường xét xử, Toà án nhân dân huyện Phú Bình tiến hành xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 68/2018/HS - ST ngày 28/5/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75 ngày 02/7/2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn A, sinh năm 1986; Tên gọi khác: Th
- Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm Đ, xã B, huyện P, tỉnh Thái Nguyên.
- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc Kinh; Tôn giáo: Không.
- Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 9/12.
- Con ông: Nguyễn Văn M, sinh năm 1959.
- Con bà: Bùi Thị L, sinh năm 1961.
- Gia đình có 03 Achị em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.
- Vợ: Hoàng Thị X, sinh năm 1990
- Có hai con; Con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2013.
- Tiền án, tiền sự: Không.
- Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/4/2018 đến nay. Hiện bị cáo đang
bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên. (Có mặt tại phiên tòa)
-Người chứng kiến:
Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1957
Địa chỉ: Phố C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 09/4/2018, tổ công tác Công an huyện Phú Bình kết hợp cùng Công an xã Kha Sơn đang làm nhiệm vụ tại khu vực phố C, xã K, huyện P thì phát hiện thấy Nguyễn Văn A ( tên gọi khác Th) có biểu hiện ghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận yêu cầu A cho kiểm tra. Ngay sauđó Ađã tự giác lấy từ trong túi quần bên phải đang mặc ra 02 gói chất bột dạng cục màu trắng được gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng. Theo A khai nhận đó là ma túy của Amang theo người mục đích để sử dụng cho bản thân và số tiền 200.000 đồng rồi giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác tiến hành lập bên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định đưa Avề trụ sở Công an để làm rõ.
Hồi 18 giờ cùng ngày cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Bình phối hợp cùng Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên mở niêm phong cân xác định trọng lượng 02 gói chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Acó tổng trọng lượng là 0,128 gam. Lấy toàn bộ làm mẫu ký hiệu A1 gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên để giám định.
Tại bản kết luận giám định số 556/KL-PC54, ngày 11/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận số chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của A trong mẫu niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng là 0,128 gam.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn A khai nhận: Do bản thân mắc nghiện chất ma túy nên Thờng xuyên đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Vào khoảng 14giờ ngày 09/4/2018, Ađi một mình từ nhà đến khu vực Phố C, xã K, huyện P, tỉnh Thái Nguyên mua của một người đàn ông không quen biết 02 gói ma túy với giá175.000 đồng. Sau khi mua được ma túy Abỏ vào túi quần bên phải đang mặc trênđường đi về đến khu vực cầu Ca, xã Kha Sơn, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ; Kết luậngiám định; Lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác mà cơ quanCảnh sát điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Vật chứng của vụ án là:
01 bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có chứa chất heroine được hoàn lạisau giám định; Số tiền 200.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Tại bản cáo trạng số: 67/CT-VKS-PB ngày 24 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình đã truy tố Nguyễn Văn A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.
Kết thúc xét hỏi, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình trình bày bản luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; đề nghị Hội đồng xét xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A từ 24 đến 30 tháng tù.
Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu A1 bên trong có chứa 0,084gam ma túy Heroine được hoàn lại sau giám định.
- Tạm giữ 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng tiền Ngân hàng nhà nước ViệtNam để đảm bảo việc thi hành án.
- Buộc bị cáo phải nộp án phí HSST.
Trong phần tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử là không oan, đúng người, đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ mức án.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo. Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]Về tố tụng: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Bình; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa cũng như quá trình điềutra bị cáo cũng như người làm chứng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]Về nội dung: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáođã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Bị cáo thừa nhận có cất giữ trong người 02 gói ma túy. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong, cân xác định trọng lượng ma túy, kết luận giám định, phù hợp với lời khai người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:
Vào khoảng 14 giờ ngày 09/4/2018, tại khu vực Phố C, xã K, huyện P, tỉnhThái Nguyên, Nguyễn Văn A ( tên gọi khác Th) đã có hành vi tàng trữ trong người 02 gói nhỏ ma túy Heroine có trọng lượng là 0,128 gam với mục đích sử dụng cho bản thân. Nguồn gốc ma túy Nguyễn Văn A mua của một người đàn ông không rõ lai lịch với giá 175.000đ.
[3]Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 249 BLHS năm 2015 quy định:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
c) Hêrôine….. có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
[4]Lời khai của người làm chứng có trong hồ sơ vụ án phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa.
[5]Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an ở địa phương. Như chúng ta đã biết ma tuý đang là hiểm hoạ lớn với con người và xã hội, người nghiện ma tuý ảnh hưởng đến sức khoẻ, kinh tế gia đình, làm suy thoái giống nòi, phá vỡ sự phát triển bền vững của xã hội. Ma tuý cũng là nguyên nhân phát sinh nhiều tội phạm khác, nhiều gia đình ly tán cũng vì ma tuý, do đó Nhà nước và nhân dân ta cương quyếtđấu tranh loại bỏ tệ nạn này ra khỏi đời sống xã hội.
[6]Khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét cho bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bố đẻ bị cáo được Nhà nước tặng Thởng huân chương kháng chiến hạng nhì và huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba nên bị cáo đượchưởng thêm một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.Mức án mà đại diện Viện kiểm sát nêu trên là phù hợp với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.
[7]Về nguồn gốc số ma túy: Theo Nguyễn Văn A ( Th) khai nhận mua của một người đàn ông không rõ lai lịch. Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Bình không có căn cứ để mở rộng điều tra vụ án.
[8]Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung bằng tiền theo khoản 5 Điều 249 BLHS mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo không có việc làm ổn định nên miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.
[9]Về xử lý vật chứng:
- 01 bì niêm phong kí hiệu A1 bên trong có chứa 0,084 gam ma túy Heroine được hoàn lại sau giám định, xét đây là vật chứng phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.
- 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam xét thấy không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần trả lại cho bị cáo, tuy nhiên bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm nên tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.
[10]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước, theo quy định tại khoản 2 Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thờng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[11]Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn A ( tên gọi khác Th) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy"
1. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015. Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn A ( Th) 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/04/2018.
Căn cứ Điều 329 BLTTHS năm 2015 quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo công tác thi hành án.
- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 46, 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu A1 bên trong có chứa 0,084 gam ma túy Heroine được hoàn lại sau giám định.
- Tạm giữ 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam để đảm bảo việc thi hành án. (Vật chứng và tiền đang được bảo quản tại kho vật chứng và tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên)
2. Án phí HSST: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ–UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thờng vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST vào ngân sách nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 71/2018/HS-ST ngày 18/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 71/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Bình - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về