Bản án 71/2018/HSST ngày 02/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 71/2018/HSST NGÀY 02/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2018/HSST ngày 13 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2018/HSST - QĐ ngày 21 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn P, sinh năm 1981 tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản T, xã Đ, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Không; dân tộc : Kinh; giơi tinh : Nam; tôn giao : Không; quôc tich : Viêt Nam; con ông Phạm Văn B (Đã chết) và bà Nguyễn Thị H; bị cáo có vợ là Nguyễn Hương T và có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/12/2017 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Hương T, sinh năm 1983; nơi cư trú: Bản T, xã Đ, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân Phạm Văn P là đối tượng nghiện hút chất ma túy. Khoảng 10h ngày 08/12/2017 P một mình điều khiển xe máy HONDA Wave BKS: 26G1 –139.03 của gia đình đi từ nhà ở Bản T, xã Đ, huyện M vào bản C, xã Đ, huyện M để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến đầu bản C, xã Đ, huyện M thì P gặp một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết, P đã hỏi và mua được của người phụ nữ dân tộc Mông đó 01 gói Hêrôin với giá 50.000đ. Sau khi mua được ma túy P cất giấu gói ma túy vào trong túi quần bên trái rồi điều khiển xe máy về đến bản Á, xã Đ, huyện M thì bị Công an xã Đông Sang, huyện Mộc Châu kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói Hêrôin và 01 xe máy HONDA Wave BKS: 26G1 – 139.03.

Ngày 08/12/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và Phòng PC54 – Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định trọng lượng cục chất bột màu trắng nghi là Hêrôin thu giữ của Phạm Văn P có trọng lượng 0,16 gam; lấy 0,08 gam để làm mẫu trưng cầu giám định, xác định có phải là chất ma túy không, loại ma túy gì, hàm lượng, trọng lượng (Khối lượng) của mẫu giám định là bao nhiêu, mẫu ký hiệu “P”.

Tại kết luận giám định số 73/KLMT ngày 13/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “ Mẫu gửi giám định ký hiệu P là chất ma túy; loại chất Hêrôin, trọng lượng của mẫu gửi giám định là   0,08 gam. Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ là 0,16 gam; loại chất Hêrôin”.

Tại bản cáo trạng số: 28/CT-VKSMC ngày 12/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã truy tố bị cáo với nội dung: Truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mộc Châu để xét xử đối với bị can Phạm Văn P về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu đã phát biểu ý kiến, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng các căn cứ pháp luật để xử phạt đối với bị cáo như sau:

1. Áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999:

Xử phạt bị cáo Phạm Văn P từ 18 đến 21 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Không áp dụng hình phạt bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về vật chứng của vụ án: Tuyên trả cho chị Nguyễn Hương T 01 xe máy HONDA Wave BKS: 26G1 – 139.03.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,08 gam Hêrôin và vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhất trí nội dung cáo trạng đã truy tố cũng như nội dung bản luận tội, bị cáo không có tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn P giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra, bị cáo không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 00 phút ngày 08/12/2017; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 08/12/2017 bị cáo Phạm Văn P đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,16 gam Hêrôin mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, quy định mức hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

Căn cứ khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định người nào tàng trữ trái phép từ 0,1 gam Hêrôin đến dưới 05 gam Hêrôin thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy có mức hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Căn cứ khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 để quyết định hình phạt theo hướng có lợi cho bị cáo. Do đó bị cáo Phạm Văn P phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm tới chế độ quản lý độc quyền chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân của bị cáo thấy rằng bị cáo có nhân thân xấu là đối tượng nghiện ma túy. Do đó xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tá c dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó cần áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền):

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa  cho thấy, bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có tài sản riêng gì có giá trị. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[4] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 xe máy HONDA Wave BKS: 26G1 – 139.03 đăng ký mang tên Nguyễn Hương T thu giữ của bị cáo Phạm Văn P xét là tài sản chung của vợ chồng bị cáo P, việc bị cáo P dùng xe máy trên để đi mua ma túy vợ bị cáo là chị Nguyễn Hương T hoàn toàn không biết và không liên quan. Xét chiếc xe máy là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Hương T, cần tuyên trả lại cho chị Nguyễn Hương T quản lý, sử dụng.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,08 gam Hêrôin cùng vỏ gói niêm phong ban đầu là vật nhà nước cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng, xét cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai, do bị cáo không biết lai lịch và địa chỉ cụ thể, Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra.

Xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[6] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn P  phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Áp dụng khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn P 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 08/12/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung  (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,08 gam Hêrôin cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

Tuyên trả cho chị Nguyễn Hương T 01 xe máy HONDA Wave a, màu đỏ, BKS: 26G1 – 139.03, sk: RLHHC 1214DY 690767, sm: HC12E 5690824, xe đã qua sử dụng cũ, không kiểm tra máy móc bên trong.

3. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2018/HSST ngày 02/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:71/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về