Bản án 71/2017/HSST ngày 30/11/2017 về lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp  tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 71/2017/HSST NGÀY 30/11/2017 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 11 năm 2017, tại hội trường TAND thị xã Hoàng Mai, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2017/HSST ngày 09 tháng 11 năm 2017 đối với:

1.  Bị cáo: Cao Văn Â; Sinh ngày 20 tháng 11 năm 1983.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm 12, xã Q, thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Trình độ văn hoá: 5/12.

Tôn giáo: Thiên chúa giáo.

Con ông: Cao Văn T (đã chết). Con bà:  Trần Thị T (đã chết).

Vợ: Nguyễn Thị Th, Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh 2014. Tiền án: Ngày 08/3/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xử phạt 14 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội trộm cắp tài sản”. Chấp Xnh xong hình phạt tháng 01/2017.

Tiền sự: Không.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/9/2017 đến nay có mặt tại phiên tòa. Người bị hại: 1. Chị Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1973 (Vắng mặt).

Trú tại: Thôn Thành C, xã Ng, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

2. Chị Trần Thị Th, sinh năm 1985 (Có mặt). Trú tại: Thôn T, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

3. Chị Trần Thị Ly H, sinh năm 1984 (Có mặt).

Trú tại: Khối 16, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

4. Chị Nghiêm Thị X, sinh năm 1971 (Vắng mặt)..

Trú tại: Thôn Hữu L, xã Trúc L, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: 1. Anh Hồ Trọng P, sinh năm 1995. Trú tại: Khối 9, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

2. Chị Lê Thị Thu Y, sinh năm 1971.

Trú tại: Khối 16, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

NHẬN THẤY

Bị cáo Cao Văn  bị VKSND thị xã Hoàng Mai truy tố về Xnh vi phạm tội như sau:

Vụ thứ nhất: Với mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên khoảng 10 giờ ngày 25/5/2017, Cao Văn  đi xe môtô đến nhà chị Nguyễn Thị Đ, trú tại thôn Thành C, xã Ng, huyện T, tỉnh Thanh Hóa tự giới thiệu là người làm trong công ty thi công cầu vượt thuộc xã Mai Lâm, huyện T đang tìm thuê người nấu ăn cho công trường. Chị Đ nghe vậy tin là thật nên đồng ý xin đi nấu ăn cho công trường. Sau đó  về nhà cất xe môtô, rồi bắt xe khách đi ra cầu Hổ thuộc xã Trường Lâm, huyện T, tỉnh Thanh Hóa gọi điện hẹn chị Đ đến cầu Hổ để đưa đến chỗ làm việc. Khoảng 13 giờ cùng ngày, chị Đ đi xe môtô nhãn hiệu HONDA Wave RS, màu đỏ đen bạc, biển kiểm soát 36U1 - 1165 đến Cầu hổ gặp Â.  đi xe môtô của chị Đ và chở chị Đ đến thuê phòng trọ của chị Lê Thị Phúc, trú tại thôn P Lâm, xã Mai Lâm, huyện T.  nói chị Đ quét dọn phòng rồi mượn xe đi chở đồ, chị Đ tưởng thật nên giao chìa khóa và xe cho Â.  đi xe môtô của chị Đ về nhà tháo biển kiểm soát và lấy một số giấy tờ cá nhân của chị Đ trong cốp xe vứt đi (không nhớ vị trí vứt), rồi mua biển kiểm soát số 37P2 - 5764 từ một cơ sở thu mua phế liệu lắp vào chiếc xe môtô chiếm đoạt của chị Đ để sử dụng.

Chiếc xe mô tô của chị Nguyễn Thị Đ có trị giá 7.000.000đ (Bảy triệu đồng), Cơ quan Cảnh sát Đ tra đã thu hồi trả lại cho chị Đ. Nay chị Đ yêu cầu Cao Văn  bồi Th 5.000.000đ (Năm triệu đồng) tiền hao mòn xe, làm lại biển kiểm soát, chứng minh nhân dân và đăng ký xe.

Vụ thứ hai: Khoảng 09 giờ ngày 24/7/2017, khi Cao Văn  đang đi xe môtô tại khu vực chợ xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu thì chị Trần Thị Ly H gọi điện nhờ  đưa đi nấu ăn công trình. Sau đó chị H mời  về nhà, khi đang ngồi uống nước tại phòng khách,  thấy con của chị H đang cầm điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, màu vàng ngồi chơi rồi để trên chiếc võng và đi ra ngoài sân.Ân nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại đó, nên giả vờ nói thèm hút thuốc lào để chị H đi tìm thuốc lào cho Â. Khi chị H đi ra ngoài để lấy thuốc lào,  liền lấy chiếc điện thoại của chị H bỏ vào túi quần rồi ra đi xe môtô về. Khoảng 05 ngày sau,  đem chiếc điện thoại đó bán cho anh Hồ Trọng P được 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng) chi tiêu cá nhân hết. Chiếc điện thoại của chị Trần Thị Ly H bị Cao Văn  chiếm đoạt có giá trị là 3.000.000đ (Ba triệu đồng),  đã bán cho anh P nay không thu hồi được. Chị H yêu cầu Cao Văn  bồi Th chiếc điện thoại là 4.000.000đ (Bốn triệu đồng).

Vụ thứ ba: Khoảng 08 giờ ngày 10/8/2017, Cao Văn  gọi điện thoại cho chị Trần Thị Th, giả vờ mua bảo hiểm và hẹn gặp ở quán Cà phê Hoàng Lan thuộc xã Quỳnh Giang, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tại quán cà phê Hoàng Lan, do có bạn của chị Th đi cùng nên  chỉ nói xem xét việc mua bảo hiểm, rồi hẹn hôm sau gặp trao đổi việc mua bán bảo hiểm. Đến khoảng 8 giờ 30 phút ngày 11/8/2017,  gọi điện hẹn gặp chị Th ở quán cà phê ở xã Quỳnh Thạch, huyện Quỳnh Lưu để bàn về việc ký hợp đồng mua bảo hiểm và hẹn 15 giờ cùng ngày sẽ đến gặp chị ở công ty bảo hiểm Bảo Việt Quỳnh Lưu để ký hợp đồng.  còn nói: “Nếu ra Quỳnh Xuân, anh giới thiệu cho mấy người bạn mua bảo hiểm” và rủ chị Th đến phường Quỳnh Xuân, thị xã Hoàng Mai để gặp bạn của Â, chị Th đồng ý và gửi xe môtô của chị tại quán cà phê. Lúc chị Th đang gửi xe,  đã đưa một phong bì thư bưu điện được dán kín, (bên trong có chứa giấy vở học sinh)  nói với chị Th trong phong bì thư đó có giấy tờ quan trọng và muốn gửi trong cốp xe môtô của chị Th, mục đích là để chị Th yên tâm đi cùng.  đi xe môtô chở chị Th đến phường Quỳnh Xuân, thị xã Hoàng Mai vào một quán cà phê ngối uống nước. Trong lúc ngồi tại quán,  giả vờ bấm chuông điện thoại nói chuyện để chị Th nghe có người trả cho  50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng). Sau đó,  lại tiếp tục giả vờ nghe cuộc điện thoại khác với nội dung “Tiền sửa chữa xe ôtô của  hết 5.000.000đ (Năm triệu đồng)”. Sau khi vờ nói chuyện điện thoại xong,  hỏi mượn tiền chị Th để trả tiền sửa chữa ôtô, chị Th đồng ý đưa cho  5.000.000đ (Năm triệu đồng).  tiếp tục giả vờ điện thoại hết pin và mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY J5, màu vàng đồng của chị Th để liên lạc với bạn, chị Th đưa điện thoại cho Â.  cầm điện thoại rồi lấy sim trong điện thoại của  lắp vào điện thoại của chị Th, rồi bỏ điện thoại vào túi quần. Ngồi uống nước một lúc,  rủ chị Th đi đến chỗ sửa chữa ôtô để trả tiền sửa xe. Khi đi đến khu vực thuộc khối 8, phường Quỳnh Xuân,  cố ý làm rơi chiếc khẩu trang đang đeo rồi dừng xe lại và nói chị Th xuống xe lấy giúp. Khi chị Th xuống xe thì  đã đi xe mô tô bỏ chạy.

Khoảng 3 ngày sau, Â đem bán chiếc điện thoại chiếm đoạt của chị Th cho anh Hồ Trọng P lấy 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Anh P đã bán chiếc điện thoại cho một người không quen biết nên không thu hồi được.

Ngày 29/9/2017 Cơ quan Cảnh sát Đ tra đã trả lại cho chị Trần Thị Th số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Chiếc điện thoại của chị Trần Thị Th có trị giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) nay chị Th yêu cầu Cao Văn  bồi Th 4.000.000đ.

Vụ thứ tư: Vào khoảng 12 giờ ngày 10/9/2017, Cao Văn  đi xe môtô trên đường Quốc lộ 1A đi từ tỉnh Thanh Hóa về Nghệ An thì gặp chị Nghiêm Thị X, trú tại Thôn Hữu Lộc, xã Trúc Lâm, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đang đi bộ bên đường thuộc địa phận huyện T, tỉnh Thanh Hóa.  bảo chị X lên xe  chở về nhà, trên đường đi,  hỏi chị X:“Có biết ai bán bảo hiểm không”?, chị X là người bán bảo hiểm nhân thọ nên khi về đến nhà, chị X giới thiệu các gói bảo hiểm để  lựa chọn và trao đổi số điện thoại hẹn hôm sau gặp nhau để bàn tiếp. Khi về nhà,  đã nảy sinh ý định lừa chị X để chiếm đoạt tài sản,  cắt tấm bìa cát tông thành các tấm có kích thước giống nhau như tờ tiền mệnh giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng), buộc lại thành khối, bọc bên ngoài một tờ giấy vở học sinh bỏ vào túi ni lông màu đen. Khoảng 8 giờ ngày 11/9/2017  gọi điện thoại hẹn gặp chị X tại quán Cà phê Linh Linh thuộc phường Quỳnh Thiện, thị xã Hoàng Mai để bàn chuyện mua bảo hiểm. Trong lúc nói chuyện,  đưa ra túi ni lông màu đen đã chuẩn bị trước đó, để 03 (ba) tờ tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) lên trên gói nhỏ bằng giấy vở học sinh để cho chị X thấy nghĩ  có nhiều tiền rồi rủ chị X đi chơi. Trước khi đi,  lấy 03 (ba) tờ tiền mệnh giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) cất vào túi, rồi bỏ túi ni lông màu đen vào cốp xe môtô của chị X gửi xe tại quán để đi chơi.  chở chị X theo đường Quốc lộ 1A đến khu vực khối 5, phường Quỳnh Xuân, thị xã Hoàng Mai, dừng xe lại nói với chị X: “Giờ trưa rồi, chị có tiền không đưa tôi mượn ta đi ăn, lát tôi vào chỗ bạn lấy tiền trả cho chị”, chị X đồng ý và đưa cho  số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Ngay sau đó,  giả vờ điện thoại hết pin và mượn điện thoại của chị X để liên lạc, chị X đồng ý và đưa chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6, màu vàng cho Â.  tiếp tục hỏi mượn chiếc nhẫn vàng của chị X, chị X tháo nhẫn đưa cho Â.  chở chị X đi theo đường Quốc lộ 1A đến cây xăng thuộc xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu, thì dừng xe lại nói: “Chị đứng đây chờ, tôi vào người bạn lấy tiền rồi ra đón chị”. Chị X xuống xe,  đi xe mô tô theo hướng từ đường Quốc lộ 1A đi vào khu vực xã Quỳnh Văn, huyện Quỳnh Lưu rồi về nhà. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày,  đem chiếc điện thoại chiếm đoạt của chị X bán cho anh Hồ Trọng P, được số tiền 1.300.000đ (Một triệu ba trăm nghìn đồng), anh P trả trước cho  số tiền 950.000đ (Chín trăm năm mươi nghìn đồng). Đến khoảng 16 giờ cùng ngày,  đem chiếc nhẫn vàng bán cho chị Lê Thị Thu Y, chủ hiệu vàng Nhật Ánh ở khối 16, phường Quỳnh Xuân, được số tiền 6.600.000đ (sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).

Tài sản của chị Nghiêm Thị X bị Cao Văn  chiếm đoạt gồm: chiếc điện thoại có giá trị là 5.000.000đ (Năm triệu đồng), chiếc nhẫn vàng loại vàng TPJ999 có trọng lượng 2,04 chỉ có giá trị 6.500.000đ (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng) đã được thu hồi trả lại cho chị X.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai số 73 ngày 08 tháng 11 năm 2017 đã truy tố bị cáo Cao Văn  về hai tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Đ 139 và khoản 1 Đ 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Cao Văn  phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội trộm cắp tài sản".

Áp dụng: khoản 1 Đ 139, khoản 1 Đ 138 điểm p khoản 1 Đ 46, điểm g khoản 1 Đ 48, Đ 50 BLHS

Xử phạt: Bị cáo Cao Văn  từ 26 tháng đến 30 tháng tù về “Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; từ 10 tháng đến 12 tháng tù về “Tội trộm cắp  tài sản”.

Tổng hợp hình phạt buộc  phải chấp Xnh hình phạt chung cho hai tội từ 36 đến 42 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Đ đã nhận lại xe mô tô và yêu cầu bị cáo  bồi thường thiệt hại hao mòn tài sản, làm lại biển số xe và giấy tờ chứng minh nhân, giấy phép lái xe tổng cọng 5.000.000đ, tại phiên tòa bị cáo cũng nhất trí nên chấp nhận.

Buộc bị cáo  bồi thường thiệt hại tài sản chiếc điện thoại di động SAMSUNG GALAXY J5 cho chị Trần Thị Th 2.500.000đ, bồi thường thiệt hại tài sản chiếc điện thoại di động OPPO F1S cho chị Trần Thị Ly H 3.000.000đ

Buộc bị cáo  trả lại tiền bán tài sản cho chị Lê Thị Thu Y  6.600.000đ, Anh Hồ Trọng P 1.000.000đ

Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 2 Đ 76 BLTTHS

Tịch  thu  tiêu  hủy  một  phong  bì  thư  bên  trong  chứa  giấy  vở  học  sinh  và một túi ny lông màu đen bên trong chứa một bọc bằng giấy vở học sinh bọc một xấp tấm bìa cát tông hình hộp chữ nhật kích thước 15x6,5x2,5cm.

Chuyển giao lại chiếc biển kiểm soát 37P2-5764 cho cơ quan Công an Hoàng Mai xem xét xử lý theo thẩm quyền.

Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105, màu xanh, thu giữ của bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước.

Chiếc xe môtô nhãn hiệu VESSEL, màu nâu, biển kiểm soát: 37N8-7284 bị cáo Cao Văn  sử dụng để làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan Công an thị xã Hoàng Mai đang tạm giữ để tiếp tục Đ tra, xác minh xử lý sau là đúng pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ tại tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét toàn diện đầy đủ chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, Hội đồng xét xử.

XÉT THẤY

Trong quá trình Đ tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo Cao Văn  đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu.

Đối chiếu lời khai của bị cáo với lời khai của người bị hại, lời khai của người có quyền nghĩa vụ liên quan, tang vật chứng thu được và các tài liệu có tại hồ sơ là hoàn toàn phù hợp về thời gian, địa điểm, đặc điểm tài sản, nội dung sự việc. Có căn cứ kết luận : “Từ tháng 5/2017 đến tháng 9/2017, bằng các thủ đoạn gian dối làm cho các chủ sở hữu tin tưởng, Cao Văn  đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị Nguyễn Thị  Đ 01  chiếc xe mô tô  nhãn hiệu HONDA Wave RS, màu đỏ đen bạc trị giá 7.000.000đ (Bảy triệu đồng); chiếm đoạt của chị Trần Thị Th 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY J5 trị giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) và số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng); chiếm đoạt của chị Nghiêm Thị X 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 trị giá 5.000.000đ (Năm triệu đồng), 01 nhẫn vàng loại vàng TPJ999 trị giá 6.500.000đ (Sáu triệu năm trăm nghìn đồng) và số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Tài sản  lừa đảo chiếm đoạt có tổng trị giá 28.000.000đ (Hai mươi tám triệu đồng). Ngoài Xnh vi lừa đảo, khoảng 09 giờ ngày 24/7/2017, sau khi được chị Trần Thị Ly H mời về nhà chơi, Cao Văn  lợi dụng sơ hở đã lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S của chị H trị giá 3.000.000đ (Ba triệu đồng).

Hành vi nêu trên của bị cáo Cao Văn  đối chiếu dấu hiệu tội phạm do bộ luật hình sự quy định có căn cứ kết luận phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Đ 138 và khoản 1 Đ 139 BLHS như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng pháp luật.

Vụ án có tính chất nghiêm trọng, trong thời gian ngắn bị cáo bị cáo đã thực hiện nhiều Xnh vi chiếm đoạt tài sản vào các đối tượng là phụ nữ, trên địa bàn rộng, gây mất trật tự trị an và tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân.

Nhân thân bị cáo ngày 08/3/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai xử phạt 14 tháng tù về hai tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Tội trộm cắp tài sản”. Chấp Xnh xong hình phạt không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân làm ăn lương thiện nay lại tiếp tục vi phạm, thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Đ 48 BLHS nên cần xử lý nghiêm.

Tuy nhiên cũng cần xem xét cho bị cáo sau khi bị phát hiện đã ra đầu thú, khai báo thành khẩn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Đ 46 BLHS.

Vì vậy, căn cứ tính chất vụ án, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, cần cách ly bị cáo ngoài xã hội một thời gian cho mỗi tội và tổng hợp hình phạt mức như Kiểm sát viên đã đề nghị tại phiên tòa mới đủ Đ kiện để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và răn đe phòng ngừa chung.

Về trách nhiệm dân sự:

Chị Nguyễn Thị Đ đã nhận lại xe mô tô bị cáo chiếm đoạt, nay yêu cầu bồi thường thiệt hại về hao mòn xe, làm lại biển kiểm soát, chứng minh nhân dân và đăng ký xe tổng cọng 5.000.000đ, tại phiên tòa bị cáo  cũng nhất trí là hoàn toàn tự nguyện phù hợp pháp luật nên chấp nhận

Xét yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản của chị Trần Thị Th và chị Trần Thị Ly H, căn cứ nhận định trên buộc bị cáo  phải chịu trách nhiệm bồi thường cho chị Th thiệt hại tài sản chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG GALAXY J5 là 2.500.000đ; bồi Th cho chị H thiệt hại tài sản chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S là 3.000.000đ. Số tiền 5.000.000đ bị cáo chiếm đoạt của chị Th, cơ quan Đ tra đã thu giữ trả lại cho chị Th nay không có yêu cầu gì thêm nên không xét.

Chị Nghiêm Thị X đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt nay không yêu cầu đề nghị gì thêm nên không xét.

Về yêu cầu trả lại tiền mua bán tài sản của chị Lê Thị Thu Y và anh Hồ Trọng P xét thấy: Sau khi chiếm đoạt được tài sản của chị Nghiêm Thị X, bị cáo  đã bán cho chị Lê Thị Thu Y chiếc nhẫn vàng được 6.600.000đ, bản cho anh P chiếc điện thoại được 1.300.000đ anh P đã trả cho bị cáo  950.000đ và một thẻ điện thoại trị giá 100.000đ.Việc mua bán thể hiện sự ngay tình, chị Y anh P không biết được tài sản bị cáo  bán do phạm tội mà có. Quá trình Đ tra chị Y, anh P đã tự nguyện giao nộp chiếc nhẫn vàng và điện thoại cho cơ quan Công an trả lại cho người bị hại (chị X). Vì vậy nên buộc bị cáo  phải chịu trách nhiệm trả lại cho chị Lê Thị Thu Y 6.600.000đ tiền mua chiếc nhẫn vàng, trả lại cho anh Hồ Trọng P 1.000.000đ tiền mua chiếc điện thoại IPHONE 6 như yêu cầu là phù hợp.

Về vật chứng vụ án:

Trong quá trình Đ tra có thu giữ của bị cáo  một chiếc xe môtô nhãn hiệu VESSEL, màu nâu, biển kiểm soát 37N8-7284 là phương tiện mà bị cáo đã sử dụng thực hiện Xnh vi phạm tội, do chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp nên Cơ quan Công an thị xã Hoàng Mai đang tạm giữ, tiếp tục Đ tra, xác minh xử lý sau là đúng pháp luật.

Chiếc biển kiểm soát 37P2-5764 qua xác minh là của xe môtô, nhãn hiệu Dream, đăng ký xe mang tên ông Nguyễn Thanh Bằng, sinh 1968, trú tại xóm 4, xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu. Nhưng ông Bằng đã bán chiếc xe đó cho một người đàn ông không quen biết nay chưa xác định được chủ sở hữu nên chuyển giao lại cho cơ quan Công an Hoàng Mai xem xét xử lý theo thẩm quyền.

Quá trình Đ tra có thu giữ một phong bì thư bên trong chứa giấy vở học sinh và một túi ny lông màu đen bên trong chứa một bọc bằng giấy vở học sinh bọc một xấp tấm bìa cát tông hình hộp chữ nhật kích thước 15x6,5x2,5cm không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105, màu xanh, bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước.

Quá trình Đ tra có thu giữ của bị cáo 15.420.000đ (Mười lăm triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng), trong đó có số tiền bị cáo chiếm đoạt của chị Nghiêm Thị X 2.000.000đ (Hai triệu đồng) và chị Trần Thị Th 5.000.000đ (Năm triệu đồng), cơ quan Công an đã trả lại cho chị X và chị Th là đúng pháp luật. Số tiền còn lại 8.420.000đ (Tám triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng) trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành khoản tiền bồi thường và tiền án phí.

Bị cáo phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại và trả lại tiền bán tài sản cho chị Th, chị Đ, chị H, chị Y và anh P như trên tổng cọng 18.100.000đ (Mười tám triệu một trăm nghìn đồng) nên phải chịu án phí dân sư sơ thẩm là 905.000đ (Chín trăm linh năm nghìn đồng).

Về án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải nạp 200.000đ.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Cao Văn  phạm tội:“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội: “Trộm cắp tài sản".

Áp dụng: khoản 1 Đ 139, khoản 1 Đ 138 điểm p khoản 1 Đ 46, điểm g khoản 1 Đ 48 và Đ 50 BLHS

Xử phạt : Bị cáo Cao Văn  : 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Trộm cắp  tài sản”.

30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Cao Văn  phải chấp Hành hình phạt chung cho hai tội là 42 (Bốn hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/9/2017.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Đ 42 BLHS, Đ 589 Bộ luật dân sự

Buộc bị cáo Cao Văn  phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tài sản cho:

- Chị Nguyễn Thị Đ 5.000.000đ (Năm triệu đồng)

- Chị Trần Thị Th 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm ngàn đồng)

- Chị Trần Thị Ly H 3.000.000đ (Ba triệu đồng)

Buộc bị cáo  phải chịu trách nhiệm trả lại tiền bán tài sản cho :

- Chị Lê Thị Y 6.600.000đ (Sáu triệu sáu trăm nghìn đồng)

- Anh Hồ Trọng P 1.000.000đ (Một triệu đồng)

Về vật chứng vụ án: Căn cứ khoản 2 Đ 76 Bộ luật tố tụng hình sự

Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư  bên trong chứa giấy  vở học sinh và một túi ny lông màu đen bên trong chứa một bọc bằng giấy vở học sinh bọc một xấp tấm bìa cát tông hình hộp chữ nhật kích thước 15x6,5x2,5cm.

Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 105, màu xanh thu giữ của bị cáo .

Chuyển giao lại cho cơ quan Công an Hoàng Mai chiếc biển kiểm soát 37P2-5764 xem xét xử lý theo thẩm quyền.

Trả lại cho bị cáo Cao Văn  8.420.000đ (Tám triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành khoản tiền bồi Th và tiền án phí.

Số tiền thu giữ đã được nộp vào tài khoản của Công an thị xã Hoàng Mai số 3949.0.9068613.00000 tại Kho bạc Nhà nước thị xã Hoàng Mai theo giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 05/10/2017.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2017 giữa cơ quan Công an với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Hoàng Mai).

Về án phí : Bị cáo Cao Văn  phải nạp 905.000đ (Chín trăm linh năm nghìn đồng) án phí dân sư sơ thẩm và 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Người bị hại và người có quyền nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn nói trên kể từ ngày nhận được bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2017/HSST ngày 30/11/2017 về lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội trộm cắp  tài sản

Số hiệu:71/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về