Bản án 71/2017/HS-ST ngày 29/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÌN HỒ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 71/2017/HS-ST NGÀY 29/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 61/2017/TLHS-ST ngày 24 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo: Tẩn Hồng M; sinh năm: 1966; nơi sinh: huyện SH, tỉnh LC; trú tại: bản NL 1, xã PSL, huyện SH, tỉnh LC; nghề nghiệp: trồng trọt; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: D; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Tẩn Lao S và bà Tẩn Mý K; có chồng là Chẻo A C (tên gọi khác: Chẻo Lao T) và 5 con (con lớn nhất sinh năm 1990 con nhỏ nhất sinh năm 2002); tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt hồi 23 giờ 00 phút ngày 13 tháng 7 năm 2017, tạm giữ từ ngày 14 tháng 7 năm 2017, tạm giam từ ngày 17 tháng 7 năm 2017 đến nay; có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 13 tháng 7 năm 2017 Tẩn Hồng M một mình đi bộ từ nhà ở của M và mang theo số tiền 1.000.000 đồng đến nhà Tẩn Mý L (sinh năm: 1971; trú tại: bản Nậm Lúc 1, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu) với mục đích mua Hêrôin (Heroine) để sử dụng. Khi đến nhà L, M thấy L đang đứng ở ngoài sân gần bể nước, M hỏi L có Hêrôin thì bán cho M một ít, L trả lời là có. M đưa cho L 1.000.000 đồng, L cầm tiền rồi đi ra phía sau bể nước lấy 01 gói Hêrôin đưa cho M, M cầm và cất gói Hêrôin vào bên trong chiếc túi may bằng vải có hoa văn hình chấm bi màu xanh, trắng, đỏ buộc ở trước bụng rồi đi về nhà. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Chẻo  A C (sinh năm: 1961) là chồng của M (đang ốm nằm liệt ở trên giường) kêu mệt, M đi vào buồng ngủ của mình để lấy một ít Hêrôin cho chồng sử dụng. Khi M lấy gói Hêrôin ra đang cầm trên tay phải thì bị lực lượng Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu phát hiện và bắt quả tang, thu giữ của M 2,4 gam Hêrôin.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng và trích mẫu giám định của Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu lập hồi 15 giờ 30 phút ngày 14 tháng 7 năm 2017 xác định: trọng lượng của gói chất bột vón cục màu trắng thu giữ của Tẩn Hồng M có trọng lượng là 2,4 gam, trích 0,41 gam làm mẫu vật gửi đi giám định, số chất bột còn lại có trọng lượng là 1,99 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 313/GĐ - KTHS ngày 26 tháng 7 năm 2017, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Căn cứ biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng và trích mẫu giám định lập hồi 15 giờ 30 phút ngày14 tháng 7 năm 2017 của Công an huyện Sìn Hồ vụ Tẩn Hồng M thì số chất bột màu trắng có trọng lượng là 2,4 gam – đã trừ bì. Mẫu vật thu giữ của Tẩn Hồng M gửi đến giám định là Heroine.

Tại Bản cáo trạng số: 63/CT-VKS ngày 24 tháng 11 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu để xét xử bị can Tẩn Hồng M về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng đã công bố không oan, sai.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tẩn Hồng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; xét về hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự; đối với 2,4 gam Hêrôin thu giữ của Tẩn Hồng M, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã trích gửi 0,41 gam gửi đi giám định. Sau khi giám định và có kết luận, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định. Đối với 1,99 gam Hêrôin là vật chứng còn lại trong vụ án, là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 túi may bằng vải (túi buộc bụng) có hoa văn hình chấm bi màu xanh, trắng, đỏ là công cụ bị cáo Tẩn Hồng M đã dùng để cất giấu trái phép chất ma túy, đề nghị áp điểm a, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng để tịch thu, tiêu hủy.

Căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiển sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Lời khai nhận tội của bị cáo Tẩn Hồng M tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ đã được thu thập đúng trình tự, thủ thục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở xác định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Khoảng 23 giờ 13 phút ngày 13 tháng 7 năm 2017, tại buồng ngủ trong nhà riêng của Tẩn Hồng M, tại bản Nậm Lúc 1, xã Phăng Sô Lin, huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu, Tẩn Hồng M đã có hành vi tàng trữ trái phép 2,4 gam Hêrôin với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Do vậy, bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy; là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình hình vi phạm pháp luật về ma túy gia tăng, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trận tự trên địa bàn huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Bị cáo nhận thức hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là vi phạm pháp luật, vì không chịu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, vì nghiện ma túy mà bị cáo cố ý mua và tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2012/HSST ngày 28 tháng 9 năm 2012, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu tuyên phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử phạt 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29 tháng 5 năm 2012; bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án, tính đến thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội lần này, bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích. Thấy rằng, bị cáo là người có nhân thân không tốt, bị cáo đã bị tuyên hình phạt tù, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Nên cần áp dụng một hình phạt nghiêm khắc với hành vi phạm tội của bị cáo để tiếp tục giáo dục, cải tạo bị cáo thành người công dân tốt cho xã hội, đồng thời giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật, phục vụ đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn. Trình độ văn hóa của bị cáo là 0/12 nên phần nào ảnh hưởng đến khả năng hiểu biết, nhận thức pháp luật của bị cáo, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng trong pháp luật của Nhà nước.

Theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 2 của Nghị quyết số: 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (Nghị quyết 41/2017/QH14 của Quốc hội) thì:

Kể từ ngày Luật số 12/2017/QH14, sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 được công bố, tiếp tục thực hiện các quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự 2015; điểm p khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 41/2017/QH14. Nên các điều khoản của Bộ luật Hình sự 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định một hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, bị cáo bị xử phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 thì hình phạt đối với bị cáo từ 01 đến 05 năm là nhẹ hơn so với quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, nên Hội đồng xét xử áp dụng quy định này.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và bản luận tội Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Mức hình phạt đề nghị áp dụng là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 của Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có khả năng thi thành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản. Bị cáo không lao động trong các ngành, nghề hoặc công việc cần phải cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc cấm hành nghề. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 2,4 gam Hêrôin thu giữ của Tẩn Hồng M, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã trích 0,41 gam gửi đi giám định. Sau khi giám định và có kết luận, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu không hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định, nên không đề cập xử lý. Đối với 1,99 gam Hêrôin là vật chứng còn lại trong vụ án, là vật Nhà nước cấm lưu hành, cần áp dụng điểm a, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng để tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 túi may bằng vải (túi buộc bụng) có hoa văn hình chấm bi màu xanh, trắng, đỏ là công cụ bị cáo Tẩn Hồng M đã dùng để cất giấu trái phép chất ma túy, hiện nay chiếc túi này không có giá trị, không sử dụng được, nên bị tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Về án phí: Theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016  của  Ủy  ban thường vụ Quốc hội quy định về Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Theo lời khai của bị cáo Tẩn Hồng M thì 2,4 gam Hêrôin bị cáo tàng trữ là do mua của Tẩn Mý L với giá 1.000.000 đồng mà có. Tuy nhiên L không thừa nhận đã bán Hêrôin cho M, chỉ dựa vào lời khai duy nhất của M và không có các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh nên không có căn cứ xử lý đối với Tẩn Mý L về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 19 tháng 9 năm 2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu đã tiến hành khám xét nơi ở, đồ vật, tài liệu đối với Tẩn Mý L. Quá trình khám xét đã thu giữ 01 túi ba lô màu xanh rêu, bên trong có 02 gói chất bột khô, vón cục, màu trắng có tổng trọng lượng là 0,08 gam được gói ngoài bằng nilon màu xanh. Tại kết luận giám định số 417/GĐ-KTHS ngày 18 tháng 10 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 02 mẫu vật thu giữ trong quá trình khám xét nơi ở của Tẩn Mý L gửi đến giám định không tìm thấy chất ma túy thường gặp, nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với Chẻo A C là chồng của bị cáo; Chẻo A S và Chẻo A L là con của bị cáo; trước khi bị cáo bị bắt, C, S, L không biết bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy, nên C, S, L không có hành vi phạm tội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Tẩn Hồng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy’’

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự, Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Xử phạt bị cáo Tẩn Hồng M 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 13 tháng 7 năm 2017).

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a, đ khoản 2 Điều 76 của Bộ luật Tố tụng để tịch thu và tiêu hủy 1,99 gam Hêrôin và 01 túi may bằng vải (túi buộc bụng) có hoa văn hình chấm bi màu xanh, trắng, đỏ.

3. Án Phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 của bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Áp dụng Điều 321, 234 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 29 tháng 12 năm 2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 71/2017/HS-ST ngày 29/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:71/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sìn Hồ - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về