Bản án 70/2021/HSST ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 70/2021/HSST NGÀY 25/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 25 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2021/TLST-HS ngày 04/02/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2021/QĐXXST-HS ngày 12/3/2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Cứ A V; Tên gọi khác: Không;

Sinh ngày 01/01/1971; Tại tỉnh B;

Địa chỉ: Bản L 1, xã M, thành phố Đ, tỉnh B.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không; Con ông: Cứ B(Đã chết); Con bà: Vàng S (Còn sống); Vợ: Hù Thị D - Sinh năm 1974; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm bị tạm giữ từ ngày 16/7/2020 về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy, đến ngày 04/11/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt 02 năm tù về tội " Mua bán trái phép chất ma túy" sau đó bị cáo đi chấp hành án. bị cáo bị tạm giam tại trại giam công an tỉnh B từ ngày 14/12/2020 cho đến ngày xét xử (Có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lò X - Luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh B, (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 18/6/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Đ, tỉnh B bắt quả tang Lò Q và Lò S tàng trữ trái phép chất ma túy, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được, ngày 15/7/2020 cơ quan cảnh sát điều tra, công an thành phố Đ đã khám xét nơi ở đối với Cứ A V, phát hiện thu giữ 04 viên đạn, 03 viên có ký hiệu 661-71, 01 viên có ký hiệu 31-71. Cứ A V khai: Nguồn gốc 04 viên đạn trên là do năm 2005 khi bị cáo tham gia huấn luyện dân quân tự vệ, tại ban chỉ huy quân sự xã M, thành phố Đ, tỉnh B. Sau khi kết thúc kiểm tra bắn đạn thật, V xin 04 viên đạn của ông Lò U, nguyên là chủ tịch UBND xã M về để lấy đồng làm chuôi dao.

Tại bản kết luận giám định số 714/GĐ - PC09 ngày 24/7/2020 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh B kết luận: 04 viên đạn trên là loại dùng cho vũ khí quân dụng, loại đạn 7,62mm - K56, loại đạn sử dụng cho súng AK, CKC, trong đó viên có ký hiệu 31-71 kim hỏa đã bị tác động, không sử đụng được, 03 viên đạn có ký hiệu 661-71 có thể sử dụng để bắn được.

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKS-P1 ngày 02/02/2021, của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, đã truy tố bị cáo Cứ A V về tội: Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, theo quy định tại khoản 1 Điều 304/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh B giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng", đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 304, điểm p, s khoản 1 Điều 51/BLHS, xử phạt bị cáo V từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, tổng hợp hình phạt của bản án số 11/2020/HSST ngày 04/11/2020, của Tòa án nhân dân thành phố Đ, bị cáo phải chịu từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Bị cáo thuộc hộ nghèo, là người dân tộc thiểu số, sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên miễn án phí hình sự sơ thẩm. Vật chứng đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống vùng khó khăn, bản thân bị cáo là người khuyết tật, thuộc hộ nghèo, trình độ văn hóa thấp, nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức khởi điểm của khung hình phạt và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo V không bổ sung thêm lời bào chữa nào, nhất trí với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với vật chứng thu giữ được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để xác định: Hồi 08 giờ 00 phút ngày 16/7/2020, tại nhà của Cứ A V, tổ công tác đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an thành phố Đ phát hiện thu giữ 04 viên đạn vũ khí quân dụng, mục đích để lấy đồng làm chuôi dao.

Do đó, có đủ cơ sở khẳng định, hành vi tàng trữ trái phép 04 viên đạn, loại đạn sử dụng cho súng AK, CKC để sử dụng của bị cáo là phạm tội: “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304/BLHS. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người bị khuyết tật thần kinh và khuyết tật tầm nhìn, tỷ lệ tổn thương cơ thể do khuyết tật là 62%, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s, p khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52/BLHS. Về nhân thân: Ngày 04/11/2020, bị cáo bị Tòa án nhân thành phố Đ xử phạt 24 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo là hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để bị cáo có điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[2]. Từ những phân tích trên khẳng định: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng" theo quy định tại khoản 1 Điều 304/BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Với hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, thì mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa đề nghị là phù hợp, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Cơ quan điều tra Công an tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4].Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 304/BLHS thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, nghề nghiệp của bị cáo là làm ruộng, thu nhập không ổn định, thuộc hộ nghèo. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Các vấn đề khác: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nguồn gốc 04 viên đạn là do ông Lường U, địa chỉ: Bản Che Căn, xã M, thành phố Đ, tỉnh B cho bị cáo, hiện ông Úi đã chết ngày 20/8/2020, nên không đề cập xem xét trách nhiệm của Lường U là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Cứ A V vào tháng 7/2020, đã bị Tòa án nhân dân thành phố Đ xét xử vào ngày 04/11/2020.

[6].Vật chứng: 04 viên đạn thu giữ của bị cáo, là vật nhà nước cấm tàng trữ, tạm giao cho cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh B lưu giữ, bảo quản, cho đến khi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh B tiếp nhận, quản lý theo quy định của pháp luật.

[7]. Án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo, là người dân tộc thiểu số, sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 304; điểm p, s khoản 1 Điều 51; Điều 55, Điều 56/Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Cứ A V phạm tội "Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng".

- Xử phạt bị cáo Cứ A V 01 (Một) năm tù. Tổng hợp hình phạt 02 (Hai) năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" tại Bản án số 11/2020/HSST ngày 04/11/2020, của Tòa án nhân dân thành phố Đ. Buộc bị cáo Cứ A V phải chấp hành hình phạt tù cho cả hai bản án là: 03(Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (16/7/2020).

2. Vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47/BLHS, khoản 2 Điều 106/ BLTTHS, tịch thu 04 viên đạn, tạm giao cho cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh B lưu giữ, bảo quản, cho đến khi Bộ chỉ huy quân sự tỉnh B tiếp nhận, quản lý theo quy định của pháp luật.

3. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS, Điều 11, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

360
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2021/HSST ngày 25/03/2021 về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng

Số hiệu:70/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về