Bản án 70/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 63/2021/TLST-HS ngày 21/5/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2021/QĐXXST-HS ngày 31/5/2021 đối với bị cáo:

Hoàng Anh T, sinh ngày 13/7/2003; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn N, xã P, huyện C, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 01/12; Con ông: Hoàng Gia L, sinh năm 1979; con bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1982; Vợ, con: Chưa; Danh chỉ bản số 237 do Công an huyện Chương Mỹ lập ngày 15/3/2021.

Nhân thân:

- Ngày 13/3/2018, bị Công an huyện Chương Mỹ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Hình thức: cảnh cáo.

- Ngày 31/10/2018, bị Công an huyện Chương Mỹ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Hình thức: cảnh cáo.

- Ngày 30/5/2019, bị Công an huyện Chương Mỹ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Hình thức: cảnh cáo.

- Bản án số 132/2020/HSST ngày 24/11/2020, Tòa án huyện Chương Mỹ xử phạt Hoàng Anh T: 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 13/7/2020 đến 18/7/2020. Ngày 05/3/2021, T tự nguyện đi chấp hành án.

Tiền sự:

- Ngày 10/9/2020, bị Công an huyện Chương Mỹ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Hình thức: Phạt tiền 750.000 đồng (đã nộp phạt ngày 15/9/2020).

- Ngày 29/9/2020, bị Công an huyện Chương Mỹ xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Hình thức: Phạt tiền 750.000 đồng (đã nộp phạt ngày 05/10/2020)

Tiền án: Không Hiện nay T đang chấp hành án từ ngày 05/3/2021 tại Trại Suối II – Ba Vì. Có mặt.

* Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Tú:

- Ông Hoàng Gia L, sinh năm 1979; HKTT: Thôn N, xã P, huyện C, Thành phố Hà Nội ( bố đẻ bị cáo T). Có mặt - Bà Nguyễn Thị H – sinh năm 1982; HKTT: Thôn S, xã T, huyện C, Thành phố Hà Nội (mẹ đẻ bị cáo T). Vắng mặt

* Người bào chữa cho bị cáo Tú: Ông Nguyễn Văn V – Trợ giúp viên pháp lý của Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 9 thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội. Có mặt

* Bị hại: Anh Nguyễn Hữu V, sinh năm 1971; Nơi cư trú: Xóm Đ, thôn P, xã T, huyện C, Thành phố Hà Nội. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án thể hiện Hoàng Anh Tú đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như sau:

Ngày 28/01/2021, Hoàng Anh T đi bộ đến quán internet ở cùng thôn để chơi game, do hết tiền chơi game và tiêu sài cá nhân nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T mượn một chiếc xe đạp điện của Đỗ Sỹ Th là người cùng chơi game với lý do là đi giải quyết công việc riêng, một lát sau sẽ quay lại trả xe cho Th. Th đồng ý cho T mượn xe. T điều khiển chiếc xe đạp điện đi về nhà T. Sau đó, T một mình đi bộ từ nhà đến khu trang trại ở gần sân bóng thuộc thôn P, xã T, huyện C, Thành phố Hà Nội với mục đích để xem gia đình nào có tài sản sơ hở thì trộm cắp. Tại đây T quan sát thấy khu trang trại chăn nuôi của gia đình anh Nguyễn Hữu V có cuộn lưới sắt hàng rào. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, T sang nhà chị Nguyễn Thị N hỏi mượn 01 chiếc kìm để đi sửa xe, chị N đồng ý. Sau đó T đi đến khu vực trang trại chăn nuôi của gia đình anh V. Tại đây, T quan sát thấy khu trang trại chăn nuôi của nhà anh V không có người trông coi. T dùng kìm cắt các chỗ nối, dùng tay nhổ hàng rào lưới sắt B40 của nhà anh V, cuộn thành 02 cuộn. Do nặng không thể tự di chuyển được, nên T để 02 cuộn lưới sắt lại và đi bộ về nhà trả lại chiếc kìm sắt cho chị N và lấy xe đạp điện, điều khiển xe quay lại khu vực trang trại nhà anh V. T để 02 cuộn lưới sắt lên chỗ để chân trước xe rồi chở đi bán. Đi được một đoạn T bị anh Nguyễn Duy Tr và lực lượng Công an xã Trường Yên phát hiện bắt quả tang, đưa về trụ sở làm việc.

Vật chứng thu giữ:

- 02 cuộn lưới sắt B40 tổng trọng lượng 43kg, cũ đã qua sử dụng - 01 xe đạp điện màu đen – trắng, nhãn hiệu 133S, cũ đã qua sử dụng

Tại Kết luận định giá số 05/KL-HĐĐG ngày 18/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chương Mỹ kết luận:

- “02 (Hai) cuộn lưới sắt B40 tổng trọng lượng 43kg, cũ đã qua sử dụng. Có giá trị là 43kg x 3.000đ/kg = 129.000 đồng”.

Mặc dù giá trị tài sản T trộm cắp ngày 28/01/2021 dưới 2.000.000 đồng, nhưng khi thực hiện hành vi phạm tội T có 02 tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Ngày 30/3/2021, Cơ quan điều tra Công an huyện Chương Mỹ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 chiếc xe đạp điện màu đen, trắng nhãn hiệu 133S cho ông Đỗ Sỹ Ph là bố đẻ anh Đỗ Sỹ Th. Trả 02 cuộn lưới sắt B40 cho ông Nguyễn Hữu V. Ông Ph, ông V đã nhận lại tài sản và không yêu cầu thêm gì khác.

Tại Bản Cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 18/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ truy tố Hoàng Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Hoàng Anh T đã khai nhận và thừa nhận toàn bộ thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng truy tố.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo T. Đề nghị tuyên bố bị cáo T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ: Điểm s (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải); h (Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại); tài sản trộm cắp có giá trị không lớn và đã thu hồi ngay trả người bị hại theo khoản 1, khoản 2 Điều 51. Đề nghị áp dụng Điều 56; Điều 101 Bộ luật hình sự. Đề nghị phạt bị cáo từ 06 – 08 tháng tù và tổng hợp với hình phạt 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản của Bản án số 132/2020/HSST ngày 24/11/2020 TAND huyện Chương Mỹ; buộc T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đề nghị xem xét. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

- Người bào chữa cho bị cáo T trình bày bản luận cứ: Bị cáo là người chưa thành niên; trình độ văn hóa lớp 01/12, có hoàn cảnh gia đình bố mẹ ly hôn, ở với ông bà nội, nên nhận thức còn hạn chế. Bị cáo đã thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả cho bị hại; trị giá tài sản không lớn. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

[1.1] Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; cơ quan truy tố; hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; về các biện pháp điều tra như lấy lời khai bị can, lấy lời khai bị hại, người làm chứng, xác định hiện trường vụ án, truy tìm vật chứng vụ án, trưng cầu định giá tài sản, xác minh lý lịch, nhân thân của bị can; về việc giao nhận các văn bản tố tụng cho bị can, bị hại. Các thủ tục tố tụng đối với bị can là người chưa thành niên đã được đảm bảo theo quy định tại Chương XXVIII Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về việc: Bị Điều tra viên, Kiểm sát viên mớm cung, ép cung, bức cung, nhục hình, các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án được thu thập đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên là chứng cứ của vụ án.

[1.2] Về sự vắng mặt của bị hại – Anh Nguyễn Hữu V: Xét thấy anh V đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; trong hồ sơ đã có đầy đủ lời khai, việc vắng mặt của anh V không làm ảnh hưởng đến việc xét xử bị cáo và giải quyết bồi thường dân sự, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh V theo quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Xét lời khai của bị cáo Hoàng Anh T tại phiên tòa, thấy phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, biên bản xác định hiện trường vụ án, kết luận định giá tài sản và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khong 16 giờ 00 ngày 28/01/2021, Hoàng Anh T đã có hành vi lén lút, trộm cắp 02 cuộn lưới sắt B40 có giá trị 129.000 đồng của gia đình anh Nguyễn Hữu V tại thôn P, xã T, huyện C, Thành phố Hà Nội. Sau khi lấy được tài sản T chở 02 cuộn lưới sắt B40 đi tiêu thụ thì bị anh Nguyễn Duy Tr và lực lượng Công an xã Trường Yên bắt quả tang.

Ngày 24/11/2020, Hoàng Anh T đã bị Tòa án huyện Chương Mỹ xử 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Lần phạm tội này của bị cáo khi chưa đủ 18 tuổi và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; nên theo quy định tại Điều 107 Bộ luật hình sự, T được đương nhiên xóa án tích đối với lần phạm tội này.

Tuy nhiên, trước đó, ngày 10/9/2020 và ngày 29/9/2020, T đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, chưa được xóa tiền sự. Do vậy, hành vi trộm cắp tài sản trị giá 129.000 đồng nêu trên của T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 18/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ truy tố Hoàng Anh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm, khoản, điều luật nói trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi trộm cắp của bị cáo T là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nên buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội đã gây ra.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người nghiện chơi game, nên đã cố ý thực hiện việc trộm cắp tài sản của người khác bán lấy tiền để chơi game. Bị cáo học hết lớp 01 thì bỏ học; hoàn cảnh gia đình bố mẹ ly hôn, phải ở với ông bà nội, nên đã thiếu sự giám sát giáo dục của bố mẹ. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo là người có nhân thân xấu: Bị cáo nhiều lần bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản; cũng đã bị xét xử về tộiTrộm cắp tài sản. Như vậy, bị cáo đã bị sự trừng trị, dăn đe, giáo dục của pháp luật về hành vi phạm tội, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tự cải tạo, ăn năn hối cải. Do vậy, phải áp dụng hình tù cách ly với xã hội một thời gian nhất định và tổng hợp với hình phạt 06 tháng tù của bản án số 132/2020/HSST, ngày 24/11/2020.

Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại”; “Thành khẩn khai báo”; “tài sản trộm cắp có giá trị không lớn và đã thu hồi ngay trả người bị hại”; được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Ngoài ra, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự, do khi phạm tội bị cáo mới 17 tuổi 06 tháng 15 ngày.

Do bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[2.2] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 30/3/2021, ông Nguyễn Hữu V đã nhận lại 02 cuộn lưới sắt B40 tổng trọng lượng 43kg và không có yêu cầu gì bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về nghĩa vụ chịu án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Anh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56; Điều 91; Điều 101; 107 Bộ luật hình sự phạt:

Hoàng Anh T: 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 06 tháng tù của Bản án số 132/2020/HSST, ngày 24/11/2020 Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ. Buộc Hoàng Anh T phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính tính từ ngày 05/3/2021, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 13/7/2020 đến ngày 18/7/2020 của bản án số 132/2020/HSST.

3. Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Buộc Hoàng Anh T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; người đai diện hợp pháp cho bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người đai diện hợp pháp cho bị cáo vắng mặt vắng quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản sao bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về