TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 70/2021/HS-PT NGÀY 08/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2021/TLPT-HS ngày 09 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Lê Thanh H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2021/HS-ST ngày 04/05/2021 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Lê Thanh H (tên gọi khác: Không), sinh ngày: 14/5/2000 tại Quảng Trị. Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Quảng Trị. Chỗ ở: Tổ 23 phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Anh Qu và bà Phan Thị Đ. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/12/2020, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 45 phút ngày 23/12/2020, Lê Thanh H đang ở dãy trọ tại K242/22/8 đường T, tổ 23 phường H, quận L, TP Đà Nẵng thì thấy xe mô tô nhãn hiệu Sirius màu xám đen, mang BKS 73G1-252.22 trị giá 15.400.000đ của anh Võ Đức C đang dựng trước dãy trọ không khóa cổ và không có ai trông coi nên dắt xe mô tô này đi ra đường T, rồi đến đường T thì H dừng lại chụp ảnh xe mô tô đăng trên một trang mạng Facebook để rao bán xe với giá 2.700.000đ. Sau đó, H tiếp tục dắt xe đến đường N. Lúc này Huỳnh Văn T sử dụng Facebook tên “T” nhắn tin với H để hỏi mua xe mô tô thì H đồng ý bán, hai bên hẹn gặp nhau để giao dịch mua bán tại đường H, quận T, TP Đà Nẵng.
Đến khoảng 14 giờ 20 phút cùng ngày, H đem xe đến trước số 56 đường H và điện thoại cho thợ sửa khóa đến mở khóa xe và làm chìa khóa mới. Sau đó, H gọi điện cho T hẹn gặp tại số 56 đường H, Tài đi cùng anh Huỳnh Văn Đ và chị Nguyễn Thị C đến điểm hẹn, khi đến nơi T gặp H rồi đứng trên lề đường nói chuyện, còn Đ và C đứng giữ xe ở dưới lòng đường. T biết xe mô tô này do trộm cắp mà có, không có giấy tờ nhưng ham rẻ nên đã mua với giá 2.400.000đ để về bán lại kiếm lời. Quá trình giao dịch mua bán xe thì Đ và C không tham gia, không biết cụ thể nội dung thỏa thuận giữa H và T và không biết xe này do H trộm cắp mà có. Sau đó, T nhờ C điều khiển xe mô tô mới mua về nhà T, còn T và Đ mỗi người đi một xe về nhà. Số tiền bán xe H dùng để trả nợ hết 2.200.000đ, còn lại 200.000đ đã giao nộp cho cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra đã thu giữ chiếc xe và giao trả cho anh Võ Đức C. Ngoài ra Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiểu còn phát hiện tại chỗ ở của T có 01 xe mô tô Yamaha Sirius gắn BKS 47H1-004.07 nhưng T không xuất trình được giấy tờ nên lập biên bản tạm giữ để xác minh.
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 34/2021/HS-ST ngày 04/5/2021 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Lê Thanh H 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/12/2020.
Bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt của bị cáo Huỳnh Văn T, về xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 10/5/2021, bị cáo Lê Thanh H có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin được xem xét theo trình tự phúc thẩm và được giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
+ Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Thanh H là đảm bảo hợp lệ.
+ Về nội dung kháng cáo: Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2021/HS-ST ngày 04/5/2021 của Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Lê Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có cơ sở và mức án mà Tòa cấp sơ thẩm đã quyết định 09 (chín) tháng tù là phù hợp, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Lê Thanh H vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ cơ sở để khẳng định: Ngày 23/12/2020 Lê Thanh H có hành vi lấy trộm 01 xe mô tô nhãn hiệu Sirius BKS 73G1-252.22, trị giá 15.400.000 đồng của anh Võ Đức C mang đi bán lấy tiền tiêu xài. Do đó án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, thì thấy: Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của người bị hại để chiếm đoạt tài sản mang đi bán cho người khác lấy tiền tiêu xài. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xử phạt bị cáo mức án 09 tháng tù là phù hợp. Sau khi xử sơ thẩm bị cáo cũng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thanh H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê Thanh H 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/12/2020.
3.Về án phí: Bị cáo Lê Thanh H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 70/2021/HS-PT ngày 08/07/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 70/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về