Bản án 70/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG XƯƠNG -TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 70/2020/HS-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 71/2020/HSST ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2020/HSST - QĐ ngày 14 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Đinh Xuân B - sinh năm: 1994.

Nơi ĐKNKTT: Tiểu khu Nam Tiến, thị trấn Nông Cống, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đinh Xuân N (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; vợ, con: Chưa có Nhân thân:

- Ngày 28/12/2010 bị TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng 8 ngày về tội “Cướp tài sản”, thi hành xong án phí ngày 20/11/2012.

- Ngày 24/11/2011 bị TAND tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm xử phạt 36 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Tổng hợp hình phạt của bản án ngày 28/12/2010 là 45 tháng 04 ngày, thi hành xong phần án phí ngày 30/11/2012;

chấp hành xong hình phạt ngày 18/10/2014.

- Ngày 25/9/2020 bị TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 45 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Tiền án: Ngày 18/4/2019 bị TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 13 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 22/01/2020, thi hành xong phần án phí hình sự ngày 14/6/2019.

Tiền sự: Chưa.

Hiện bị cáo đang bị tạm giữ từ ngày 25/5/2020 đến ngày 31/5/2020 chuyển tạm giam trong một vụ án khác của Tòa án nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

- Chị Lê Thị H - sinh năm 1971 (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã Y, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ ngày 21/5/2020 Đinh Xuân B ở tiểu khu Nam Tiến, thị trấn N, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa đến nhà chị Vũ Thị T ở cùng khu phố để mượn xe mô tô Wave BKS 37D1-076.94 đi lên TP Thanh Hóa chơi. Khoảng 16 giờ cùng ngày, khi đi về đến đoạn QL45 thuộc địa phận thôn Yên Cảnh, Quảng Yên, Quảng Xương phát hiện thấy chị Lê Thị H, sinh năm 1971 ở thôn Đ, xã Y, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa đi xe máy cùng chiều phía trước với tốc độ chậm, trên xe có treo 01 túi da màu đen. B nảy sinh ý định cướp giật tài sản, nên điều khiển xe máy từ phía sau đi lên, khi xe của B song song với chiếc xe của chị H, cách xe chị H khoảng 70cm, B giơ tay phải giật túi sách của chị H rồi tăng ga bỏ chạy về phía huyện Nông Cống. Khi chạy đến đoạn đường Quốc lộ 45 thuộc địa phận thôn Bi Kiều, Trung Chính, Nông Cống phát hiện thấy chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1993 ở thôn Tín Bản, xã Trường Trung, huyện Nông Cống đang điều khiển xe máy đi phía trước trên xe có treo túi xách nên B vượt lên giật chiếc túi xách của chị N. Sau khi giật được túi xách của chị N, biết trong túi xách của chị H mà mình giật trước đó không có tài sản có giá trị nên B vứt chiếc túi xách của chị H xuống đường rồi bỏ chạy, sau đó đem xe về trả cho chị T rồi đi về nhà. Chị N sau khi bị B giật túi xách thì tăng ga đuổi theo một đoạn, nhìn thấy chiếc túi xách của chị H bị vứt, chị N nghĩ là túi của mình nên nhặt lên kiểm tra, thấy không phải túi của mình nên chị N đã đem giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Cống.

Ngày 25/5/2020 B bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Cống khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội Cướp giật tài sản (Cướp giật túi xách của chị N) và tạm giữ từ ngày 25/5/2020 đến ngày 31/5/2020 chuyển tạm giam. Quá trình điều tra tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Cống, B đã khai nhận hành vi phạm tội cướp giật tài sản (túi xách) của chị Lê Thị H tại QL 45 thuộc thôn Yên Cảnh, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương. Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Cống đã tiến hành chuyển giao vụ việc cùng tang vật của vụ án đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Xương để giải quyết theo thẩm quyền.

Theo báo cáo của chị Lê Thị H, chị bị giật 01 túi xách trong túi có: 01 sổ hộ khẩu số 620 mang tên chủ hộ Trịnh Ngọc T, sinh năm 1971 ở Yên Đông, Quảng Yên, Quảng Xương, Thanh Hóa; 01 sổ vay vốn kiêm phương án sử dụng đất của Ngân hàng Agribank mang tên Lê Thị H; 01 thẻ ATM Ngân hàng BIDV màu vàng mang tên Lê Thị H; 01 CMTND số 172846450; 01 CCCD số 038171003478; 01 giấy phép lái xe số 381159011289; 01 thẻ BHYT số GD 4383823333249 mang tên Lê Thị H; trị giá chiếc túi xách chị bị cướp giật trị giá khoảng 500.000đ. Ngày 17/6/2020 Hội đồng định giá tài sản huyện Quảng Xương định giá chiếc túi xách của chị H thời điểm bị cướp giật trị giá 500.000đ.

Ngày 17/7/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Xương đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc túi xách da màu đen đã qua sử dụng cùng toàn bộ giấy tờ có trong túi xách của chị Lê Thị H, chị H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì về dân sự.

Trong vụ án này có Vũ Thị T là người cho Đinh Xuân B mượn chiếc xe mô tô wave BKS 37D1-076.94, tuy nhiên T không biết B mượn xe để đi cướp giật tài sản nên không có căn cứ để xử lý hình sự đối với T.

Tại bản cáo trạng số 74/Ctr - VKSQX ngày 18/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương đã truy tố bị cáo Đinh Xuân B về tội: “ Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Quảng Xương giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như cáo trạng đã nêu và đề nghị HĐXX:

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đinh Xuân B từ 48 đến 50 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 45 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án số 49/2020/HSST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Nông Cống. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 7 năm 9 tháng đến 7 năm 11 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/5/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Lê Thị H không có yêu cầu gì về phần dân sự nên không xét.

Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận, chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục và tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét về hành vi của các bị cáo thấy rằng: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ vụ án. Xác định: Khoảng 16 giờ ngày 21/5/2020 tại Quốc lộ 45 thuộc địa phận thôn Yên Cảnh, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương Đinh Xuân B đã có hành vi sử dụng xe máy nhãn hiệu Wave mượn của chị Vũ Thị T từ trước đó đi cướp giật tài sản là 01 chiếc túi xách màu đen hiệu Hermes của chị Lê Thị H sinh năm 1971 ở thôn Đoài Đông, xã Quảng Yên, huyện Quảng Xương, trị giá 500.000đ.

Như vậy đủ cơ sở kết luận hành vi nêu trên của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội: “Cướp giật tài sản”. Tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của BLHS. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Xương truy tố bị cáo về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của BLHS là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất của vụ án và nhân thân của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, việc bị cáo dùng xe mô tô để đi cướp giật tài sản là thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm. Việc dùng xe mô tô để cướp giật còn có thể sẽ gây nguy hiểm cao cho sức khỏe và tính mạng của người khác. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sử hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Không những thế hành vi phạm tội của bị cáo đã làm mất trật tự trị an, gây hoang mang trong nhân dân, làm ảnh hưởng đến đời sống B thường của người dân, làm cho người dân không an tâm trong việc bảo vệ tài sản của mình. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xét xử nhiều lần nhưng sau khi chấp hành xong bản án không lấy đó làm bài học để tự cải tạo, sửa chữa trở thành người có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục có hành vi phạm tội. Bị cáo đang có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Trước đó tại bản án số 49/2020/HSST ngày 25/9/2020 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 45 tháng tù về tội cướp giật tài sản (Hành vi xảy ra cùng ngày với việc cướp túi xách của chị Lê Thị H). Tuy nhiên, thấy rằng quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

Do đó khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Chị Lê Thị H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác nên không xem xét.

Đối với chiếc xe máy bị cáo mượn của chị Vũ Thị T để đi cướp giật, chị T không biết là việc bị cáo mượn xe để đi cướp giật nên không có cơ sở xử lý hình sự đối với chị T.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 của BLHS.

- Tuyên bố: Bị cáo Đinh Xuân B phạm tội:“ Cướp giật tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Đinh Xuân B 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 45 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án số 49/2020/HSST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Nông Cống. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 07 năm 09 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/5/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Chị Lê Thị H không yêu cầu gì khác nên không xem xét.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng Án phí và Lệ phí Tòa án; Mục 1, Phần I Danh mục án phí Tòa án.

Bị cáo Đinh Xuân B phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:70/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Xương - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về