Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 70/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 169/2020/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Q; sinh năm 1970; nơi cư trú: Xóm 15, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”.

Bị đơn: Anh Phạm Thanh T; sinh năm 1976; nơi cư trú: Xóm 15, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai tại Toà án và tại phiên tòa, nguyên đơn Chị Đỗ Thị Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân; Chị và anh Phạm Thanh T trước khi kết hôn tự nguyện tìm hiểu và đã được Ủy ban nhân dân xã A cấp Giấy chứng nhận kết hôn. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian dài thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh T chơi bời, cờ bạc dẫn đến việc nợ lần. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 7 năm 2020 cho tới nay. Nay chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Thanh T.

Về con chung: Vợ chồng có 04 con chung: Phạm Thị Thanh H; sinh ngày 06/6/1995; Phạm Thị Thu U; sinh ngày 02/7/1997; Phạm Tùng D; sinh ngày 18/11/2004; Phạm Gia H; sinh ngày 15/7/2012. Hiện nay cháu Phạm Thị Thanh H và Phạm Thị Thu U đã có gia đình riêng. Khi ly hôn, chị nhận trách nhiệm nuôi con Phạm Tùng D và Phạm Gia H cho đến khi trưởng thành không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

Về tài sản: Chị không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đối với anh Phạm Thanh T: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T nhưng anh T không trình bày quan điểm và không đến của Tòa án để làm việc.

Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ tại xã A, huyện Giao Thủy;: Việc kết hôn, chung sống vợ chồng như chị Q sự trình bày là đúng.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp.

Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị Q và anh Phạm Thanh T. Căn cứ vào các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, con Phạm Tùng D và Phạm Gia H cho chị Q trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận việc chị Q không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Đỗ Thị Q có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; bị đơn anh Phạm Thanh T được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Vì vậy, căn cứ vào Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự đủ cơ sở xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Q và anh Phạm Thanh T kết hôn hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng của chị Q và anh T không có hạnh phúc, đã sống ly thân trong thời gian dài, anh T không đến Tòa án để làm việc, không tham gia hòa giải. Như vậy, mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị Q và anh Phạm Thanh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đỗ Thị Q đối với anh Phạm Thanh T, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình.

[3] Về việc nuôi con chung chưa thành niên: Xác định vợ chồng chị Q, anh T có 04 con chung: Phạm Thị Thanh Huyền; sinh ngày 06/6/1995; Phạm Thị Thu Uyên; sinh ngày 02/7/1997; Phạm Tùng D; sinh ngày 18/11/2004; Phạm Gia H; sinh ngày 15/7/2012. Hiện nay cháu Phạm Thị Thanh H và Phạm Thị Thu U đã có gia đình riêng nên không xem xét điều chỉnh. Xét yêu cầu của đương sự, nguyện vọng của con chung và điều kiện nuôi con của chị Q; căn cứ vào các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; đủ cơ sở giao cháu Phạm Tùng D và Phạm Gia H cho chị Đỗ Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của chị Q không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét điều chỉnh.

[5 ] Về án phí: Chị Đỗ Thị Q là nguyên đơn nên phải nộp án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; xử cho ly hôn giữa chị Đỗ Thị Q và anh Phạm Thanh T.

2. Về việc nuôi con chung chưa thành niên: Căn cứ các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; giao cho chị Đỗ Thị Q trực tiếp nuôi con Phạm Tùng D, sinh ngày 18/11/2004 và Phạm Gia H, sinh ngày 15/7/2012; anh Phạm Thanh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung nhưng có quyền chăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 kèm theo Danh mục án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội; buộc: Chị Đỗ Thị Q phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0000052 ngày 28 tháng 9 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy. Chị Đỗ Thị Q đã nộp đủ án phí ly hôn.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:70/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về