Bản án 70/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 70/2019/HS-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 67/2019/HS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2019 và Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số 29/2019/QĐ-TA ngày 24 tháng 9 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Bảo T (tên gọi khác Dũng), sinh năm: 1981, tại Bà Rịa – Vũng Tàu; hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Số x đường P, khu phố y, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Nhân viên bán hàng; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1955 và bà Vũ Thị L (chết); có vợ Nguyễn Thị Thanh M, sinh năm: 1990 (đã ly hôn) và 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự, nhân thân: Không; Bị bắt tạm giam ngày 12/7/2019, theo Quyết định truy nã số 02/QĐ-CQĐT ngày 17/6/2019 của Cơ quan sảnh sát điều tra Công an thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

- Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn T; địa chỉ: Số x đường N, tổ y, khu phố z, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người đại diện hợp pháp theo pháp luật: Bà Đặng Thị Mai D, sinh năm: 1960 – Chức vụ: Giám đốc (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp thep ủy quyền: Bà Trần Thị Thu H, sinh năm: 1980; địa chỉ: Số x đường V, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “Văn bản ủy quyền ngày 20/9/2018” (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1955; địa chỉ: Tổ x, khu phố y, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị Bảo N, sinh năm: 1976; địa chỉ: Số x đường V, khu phố y, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (có mặt).

Người làm chứng:

1. Bà Võ Thị Cẩm T, sinh năm: 1992; địa chỉ: Số x đường L, thị trấn N, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

2. Bà Võ Thị L, sinh năm: 1982; địa chỉ: Số x đường H, thị trấn G, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

3. Ông Đoàn Tiến D, sinh năm: 1982; địa chỉ: Số x đường số y, thôn G, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

4. Bà Phan Thị Ngọc A, sinh năm: 1964; địa chỉ: Quốc lộ x, tổ y, thôn Đ, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

5. Bà Ngô Thị T, sinh năm: 1970; địa chỉ: Tổ x, Giáo xứ T, ấp M, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

6. Ông Phạm Văn Đ, sinh năm: 1966; địa chỉ: Số x đường T, khu phố V, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

7. Bà Nguyễn Thị Ngọc B, sinh năm: 1969; địa chỉ: Số x đường P, khu phố N, phường P, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Bảo T là nhân viên của Công ty trách nhiệm hữu hạn T (sau đây gọi là Công ty T). Tại đây bị cáo được giao nhiệm vụ đi giao hàng cho các cửa hàng tạp hóa trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đồng thời nhận và quản lý tiền hàng do các cửa hàng tạp hóa thanh toán, sau đó đem về nộp lại cho công ty. Trong khoảng thời gian từ ngày 15/8/2018 đến ngày 14/9/2018, bị cáo đã nhiều lần nhận hàng của công ty để đi giao cho khách hàng và nhận đầy đủ tiền hàng từ các cửa hành, đại lý, cụ thể:

- Ngày 15/8/2018, giao hàng cho cửa hàng tạp hóa H tại thôn Đ, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do ông D làm chủ và nhận số tiền 14.540.500đ.

- Ngày 22/8/2018, giao hàng cho của hàng tạp hóa A tại thôn Đ, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do bà A làm chủ và nhận số tiền 8.511.024đ.

- Ngày 24/8/2018, giao hàng cho cửa hàng tạp hóa L tại số x đường H, Trung tâm thương mại N, thị trấn N, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do bà L làm chủ và nhận số tiền 19.488.336đ.

- Ngày 10/9/2018, giao hàng cho cửa hàng tạp hóa C tại tổ x, Giáo xứ T, ấp M, phường M, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do bà T làm chủ và nhận số tiền 11.866.416đ.

- Ngày 10/9/2018, giao hàng cho cửa hàng tạp hóa T và nhận số tiền 20.034.480đ.

- Ngày 10/9/2018, giao hàng cho cửa hàng tạp hóa N tại số x đường P, khu phố N, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do bà B làm chủ và nhận số tiền 21.425.136đ.

- Ngày 10/9/2018, giao hàng cho cửa hàng tạp hóa Đ tại số x đường T, khu phố V, phường P, thị xã P, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do ông Đ làm chủ và nhận số tiền 18.406.224đ.

- Ngày 14/9/2018, giao hàng cho cửa hàng tạp hóa Anh Tuấn tại số xđường L, thị trấn N, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu do bà T làm chủ và nhận số tiền 9.560.064đ.

Tổng số tiền bị cáo nhận từ các cửa hàng tạp hóa nói trên là 123.832.180đ, tuy nhiên trong thời gian này bị cáo thường xuyên bị chủ nợ gọi điện thoại yêu cầu trả nợ nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của công ty. Do đó, bị cáo không nộp lại số tiền đã nhận cho công ty mà sử dụng vào mục đích trả nợ và tiêu xài cá nhân hết. Để tránh bị công ty phát hiện, bị cáo giả chữ ký của các chủ cửa hàng tạp hóa trong các hóa đơn nhằm xác nhận việc những khách hàng này nợ lại tiền hàng của công ty, đồng thời bị cáo giao lại các hóa đơn này cho công ty và báo cáo về việc chưa nhận tiền từ các cửa hàng tạp hóa.

Sau khi bị phát hiện, ngày 20/9/2018, bị cáo đến công ty trình bày sự việc và hứa sẽ khắc phục hậu quả trong thời gian 02 tháng. Tuy nhiên, bị cáo không khắc phục được khoản nào mà tắt máy điện thoại và bỏ đi khỏi địa phương.

Ngày 07/12/2018, bà Trần Thị Thu H là người đại diện theo ủy quyền của Công ty T gửi đơn tố cáo hành vi của bị cáo đến Công an thành phố Bà Rịa, đồng thời giao nộp các hóa đơn bán hàng mà bị cáo đã giả chữ ký của các khách hàng trên.

Quá trình làm việc các cửa hàng tạp hóa nói trên xác nhận đã nhận số hàng do Công ty T giao và đã thanh toán đầy đủ tiền hàng theo hóa đơn bán hàng, không còn nợ và không ký nhận gì vào hóa đơn bán hàng của Công ty T.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình đã bồi thường cho Công ty T số tiền 50.000.000đ để khắc phục hậu quả, công ty yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn lại 73.832.180đ. Sau khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử gia đình bị cáo bồi thường tiếp cho Công ty T số tiền còn lại, người đại diện theo ủy quyền của công ty xác nhận đã nhận đủ số tiền và có đơn xin bãi nại cho bị cáo.

Tại Cáo trạng số 72/CT-VKSBR ngày 03/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu truy tố bị cáo Nguyễn Bảo T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”: Áp dụng Điều 38, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố; không có ý kiến tranh luận, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm có điều kiện lo cho các con nhỏ. Người đại diện theo ủy quyền của bị hại xác nhận đã nhận đủ số tiền bồi thường và có đơn xin bãi nại cho bị cáo; bà N không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền đã thanh toán cho bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người đại diện theo ủy quyền của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ đó Hội đồng xét xử có cơ sở kết luận: Nguyễn Bảo T là nhân viên của Công ty T được công ty giao nhiệm vụ đi giao hàng cho các cửa hàng tạp hóa trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và nhận tiền hàng do khách hàng trả. Trong khoảng thời gian từ ngày 15/8/2018 đến ngày 14/9/2018, lợi dụng sự tin tưởng của công ty trong việc đi giao hàng và nhận tiền hàng, bị cáo đã giả chữ ký xác nhận của 8 chủ cửa hàng tạp hóa trong các hóa đơn bán hàng để chiếm đoạt 123.832.180đ để trả nợ và tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung chiếm đoạt tài sản giá trị từ 50.000.000đ đến dưới 200.000.000đ quy định tại điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ và gây mất trật tự, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam, để có tiền tiêu xài cho bản thân mà bất chấp quy định của pháp luật, cố ý thực hiện tội phạm. Sau khi bị công ty phát hiện yêu cầu bị cáo khắc phục hậu quả nhưng bị cáo không khắc phục mà bỏ đi khỏi địa phương gây khó khăn cho công tác điều tra của cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện, đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại và được bị hại có đơn xin bãi nại là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi nhận lại toàn bộ số tiền bị chiếm đoạt người đại diện theo ủy quyền của bị hại không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết. Đối với số tiền ông V và chị N bỏ ra bồi thường cho bị hại thay bị cáo nhưng không yêu cầu hoàn trả nên không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 38, Điều điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 và điểm c khoản 2 Điều 175 của Bộ luật hình sự; các điều 136, 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, tuyên xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Bảo T (tên gọi khác Dũng) phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bảo T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/7/2019.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Bảo T phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại và người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HS-ST ngày 30/09/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:70/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về