Bản án 70/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 70/2019/HS-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 70/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2019 đối với:

Bị cáo Đỗ Thanh T sinh ngày 25/11/1997; nơi sinh: Huyện H, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn X, xã V, Huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Xuân L sinh năm 1972 và bà: Trần Thị H sinh năm 1977; vợ, con: Chưa có Tiền sự: Không Tiền án: Có 01 tiền án, bản án số 41/2018/HS-ST ngày 12/4/2018 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong án phạt tù ngày 08/7/2018 Bị tạm giữ từ ngày 15/6/2019, chuyển tạm giam ngày 18/6/2019 hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ (trích xuất có mặt tại phiên tòa).

Người chứng kiến:

- Anh Nguyễn Ngọc T1 sinh năm 1992

Địa chỉ: Thôn X, xã V, Huyện H, tỉnh Thái Bình

- Ông Đỗ Đình N sinh năm 1968

Địa chỉ: Thôn K, xã QM, huyện P, tỉnh Thái Bình.

(Đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 15/6/2019, tại khu vực thôn HH, xã QM, huyện P, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện Đỗ Thanh T và Nguyễn Ngọc T1 có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu cả hai về trụ sở UBND xã QM để kiểm tra. Tiến hành kiểm tra phát hiện, thu giữ tại túi quần bên phải phía sau T đang mặc 01 gói nilon trong suốt chứa các hạt tinh thể màu trắng trong suốt. T khai nhận đó là ma túy đã T mua để sử dụng cho bản thân. Kiểm tra người Toàn và chiếc xe mô tô của Toàn không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Đỗ Thanh T không thu giữ tài sản, đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại bản kết luận giám định 254/KLGĐ-PC09 ngày 16/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:

Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 0,5597 gam (Không phẩy năm nghìn năm trăm chín mươi bẩy gam).

Methamphetamine STT: 323, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ”.

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận: Bản thân nghiện ma túy nên khoảng 19 giờ ngày 15/6/2019, T đi bộ một mình từ nhà ra đường liên xã Văn Cẩm thì gặp Nguyễn Ngọc T1, T nhờ T1 chở sang khu vực thôn HH, xã QM nhưng T không nói là đi mua ma túy. Đến nơi, T bảo T1 đứng chờ, còn T đi bộ một mình, tìm và gặp mua của một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không quen biết 01 gói ma túy đá với giá 550.000 đồng rồi đi ra chỗ T1 chờ thì bị phát hiện bắt giữ.

Bản cáo trạng số 77/CT-VKSQP ngày 09/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình truy tố Đỗ Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Đỗ Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh tuyên bố bị cáo Đỗ Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù đến 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu để tiêu hủy toàn bộ vật chứng là Methamphetamine thu được của bị cáo trong phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì; bị cáo nói lời sau cùng: nhận thức hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, rất ân hận về hành vi mà mình đã thực hiện và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy nên bị cáo đã đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Bị cáo đã đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả và được chứng minh bằng: biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng do Công an huyện Quỳnh Phụ lập ngày 15/6/2019, lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 15/6/2019, tại khu vực thôn Hải Hà, xã QM, huyện P, tỉnh Thái Bình, Đỗ Thanh T đã có hành vi cất giấu tại túi quần bên phải phía sau đang mặc 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,5597 gam (Không phẩy năm nghìn năm trăm chín mươi bẩy gam) nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

“Điều 249 Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy, thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiên, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Hêrôin côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……….”

Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ truy tố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Tệ nạn ma túy đang là mối quan tâm, nhức nhối của toàn xã hội, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, làm phát sinh đại dịch HIV/AIDS và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy nhưng vì nghiện ma túy nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật với mức án tương xứng hành vi bị cáo đã gây ra, việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để chấp hành hình phạt là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo riêng và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành thật khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Bị cáo đã bị giáo dục, cải tạo song không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo như mức hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Như vậy, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo lao động tự do, không có thu nhập ổn định, lại nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[9] Đối với anh Nguyễn Ngọc T1 là người chở bị cáo sang huyện Quỳnh Phụ nhưng anh Toàn không biết bị cáo đi mua ma túy, khám xét không thu giữ tài sản, đồ vật của anh T1 liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cơ quan điều tra không xử lý đối với anh T1 là phù hợp.

[10] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 01 gói chứa các hạt tinh thể màu trắng trong suốt, kết quả giám định kết luận là ma túy loại Methamphetamine và hoàn trả mẫu vật sau giám định, cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố Tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đỗ Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2.Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo Đỗ Thanh T 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/6/2019.

3.Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy 0.5132 gam (Không phẩy năm nghìn một trăm ba mươi hai gam) mẫu gửi giám định được niêm phong trong phong bì hoàn mẫu vật sau giám định ghi số 254/KLGĐ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình ngày 09/9/2019.

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Đỗ Thanh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HS-ST ngày 27/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về