TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 70/2019/HSST NGÀY 07/03/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUI ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
Ngày 07 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 23/2019/HSST ngày 23/01/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:
Bùi Văn T - Sinh năm 1985; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Làng M, xã T; huyện B, tỉnh T; nghề nghiệp: lái xe; văn hóa: 12/12; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: mường; tôn giáo: không; con ông Bùi Văn H - Sinh năm 1961; con bà Vũ Thị H - Sinh năm 1961; vợ: Hà Thị H - sinh năm 1990; có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Ông Nguyễn Hữu Đ. Sinh năm 1957 (chết)
Trú tại: Xóm 6 xã D huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Anh Nguyễn Hữu H (con ông Đ) (vắng mặt)
Trú tại: Thôn T, xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 12h15 phút ngày 27/10/2018 Bùi Văn T có giấy phép lái xe hợp lệ điều khiển xe ô tô BKS 36B-005.05 lưu thông trên Quốc lộ 47 theo hướng Đông Tây, khi đi đến ngã tư giao nhau với đường vành đai phía Tây thuộc địa phận xã Đ, thành phố T đã đâm va với xe mô tô BKS 29X8-8513 do ông Nguyễn Hữu Đ, sinh năm 1957 điều khiển chở phía sau vợ là bà Trịnh Thị N sinh năm 1957 cùng trú tại xóm 6 xã D, huyện T, tỉnh Thanh Hóa đang lưu thông trên đường vành đai phía Tây theo hướng Bắc Nam, hậu quả ông Đ tử vong tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa, bà N bị thương, hai phương tiện hư hỏng.
Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã phối hợp với lực lượng chức năng tổ chức khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và phương tiện liên quan. Kết quả khám nghiệm được xác định như sau:
*Khám nghiệm hiện trường:
- Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn tại ngã tư quốc lộ 47 giao nhau với đường vành đai phía Tây xã Đ, thành phố T. Mặt đường được trãi nhựa phẳng, đường Quốc lộ 47 rộng 12m, đường vành đai phía Tây rộng 11m, đường không có dải phân cách cứng dành cho các chiều phương tiện đi chung. Hướng bắc đi xã Đ, hướng Nam đi Quốc lộ 45.
- Lấy mép giả định phía Nam đường Quốc lộ 47 làm mốc, lấy mép phía Nam đường Quốc lộ 47 làm mép chuẩn để xác định hiện trường.
- Tiến hành đo đạc xác định vị trí thứ tự các dấu vết, phương tiện liên quan trong vụ tai nạn như sau:
1. Cách mốc 5m80 về phía Bắc là vị trí đầu vết tỳ xuất hiện trên mặt đường kích thước ( 20,2 x 0,15m); vết có chiều Đông Tây, đầu vết đo vào mép chuẩn là 5m80 cuối vết trùng với vị trí bánh trước bên trái xe ô tô BKS 36B – 005.05.
2. Vị trí xe ô tô BKS 36B-005.05 dừng trên mặt đường, đầu xe quay hướng Tây, đuôi xe quay hướng Đông, tâm trục bánh trước trùng với mép chuẩn, tâm trục bánh sau cách mép chuẩn là 1m30.
3. Vết cày xước trên mặt đường kích thước (13,2 x 0,06m) vết có chiều Đông Tây đầu vết cách mép chuẩn 5m40, cuối vết trùng với giá để chân bên phải của xe mô tô BKS 29X8-8513.
4. Vị trí xe mô tô BKS 29X8-8513 nằm đổ nghiên phải hiện trường, đầu xe quay hướng Nam, đuôi xe quay hướng Bắc. Tâm trục bánh trước và tâm trục bánh sau lần lượt cách nép chuẩn là 0,30m và 1m.
5. Vị trí đám máu kích thước (0,15 x 0,15m) vết cách mép chuẩn là 4m40, cách vị trí xe mô tô BKS 29x8-1513 là 3m40
* Về khám nghiệm phương tiện xác định:
Tại kết luận giám định số 2333/PC 09 ngày 12/11/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa thể hiện:
- Điểm va chạm đầu tiên giữa hai phương tiện: Mặt trước trán xe cách thành xe bên phải 48,5cm xe ô tô BKS 36B-005.05 với mặt ngoài đầu mút ngoài tay nắm bên trái xe mô tô BKS 29X8-8513.
- Tại thời điểm va chạm xảy ra va chạm xe ô tô BKS 36B-005.05 chuyển chuyển động từ trái sang phải so với hướng chuyển động của xe mô tô BKS 29X8-8513.
- Vị trí va chạm giữa hai phương tiện nằm trước đầu vết cày xước mặt đường số 3 trong khu vực ngã tư được thể hiện trên sơ đồ hiện trường.
- Không đủ cơ sở xác định vận tốc của các phương tiện tại thời điểm xảy ra va chạm.
* Về giám định tử thi Nguyễn Hữu Đ tại kết luận giám định pháp y số 2228/GĐPY-PC 09 ngày 31/10/2018 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa dấu hiệu chính qua giám định:
- Các vết rách da, xây xước da, sưng nề bầm tụ máu tại: đầu, mặt, tay phải, chân phải.
- Hố mắt phải bầm tím, sưng nề
- Gãy cung trước xương sườn số 1,2,3,4 bên trái
- Tụ máu lan tỏa màng mềm
- Phù não.
Kết luận nguyên nhân chết : Đa chấn thương
* Đối với thương tích của bà Trịnh Thị N với các vết thương: Sưng nề gò má bên trái, sưng nề cẳng chân trái, kết quả chụp CT gãy xương gò má bên trái: kết quả chụp X quang gãy 1/3 trên cẳng chân trái. Ngày 03/12/2018 bà N đề nghị từ chối giám định thương tích nên không có cơ sở xử lý theo quy định Pháp luật.
Về dân sự: Ngày 01/12/2018 Bùi Văn T đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại số tiền 178.000.000đ (một trăm bảy mươi tám triệu đồng) Đại diện gia đình ông Đ có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Bùi Văn T.
Về vật chứng: Vật chứng vụ án là xe ô tô BKS 36B-005.05 và chiếc xe mô tô BKS 29X8-8513, quá trình điều tra, cơ quan điều tra Công an thành phố T xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án nên đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại phương tiên cho chủ sở hữu hợp pháp.
Tại cáo trạng số 57/CT-VKSTP ngày 21/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Bùi Văn Thanh về tội: Vi phạm các qui định về tham gia giao thông đường bộ” theo Điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thành phố T luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2].Tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn T khai nhận: Hồi 12h15 phút ngày 27/10/2018 Bùi Văn T có giấy phép lái xe hợp lệ điều khiển xe ô tô BKS 36B - 005.05 lưu thông trên Quốc lộ 47 theo hướng Đông Tây, khi đi đến ngã tư giao nhau với đường vành đai phía Tây thuộc địa phận xã Đ, thành phố T, trong lúc đang điều khiển xe do không chú ý quan sát đã đâm va vào xe mô tô BKS 29X8-8513 do ông Nguyễn Hữu Đ điều khiển chở phía sau bà Trịnh Thị N ( là vợ ông Đ) gây tai nạn làm ông Đ tử vong.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Bùi Văn T phạm tội “ Vi phạm các qui định về tham gia giao thông đường bộ” Tội danh và hình phạt được qui định tại điểm a khoản 1 Điều 260 của BLHS.
[3]. Đây là vụ án giao thông gây hậu quả nghiêm trọng làm thiệt hại đến tính mạng con người, Bùi Văn T có giấy phép lái xe hợp lệ với loại phương tiện được điều khiển, trong khi điều khiển xe ô tô tham gia giao thông, khi đi trên quốc lộ 47 theo hướng Đông - Tây, khi đến ngã tư giao nhau với đường tránh phía Tây thuộc địa phận xã Đ, thành phố T, trong lúc điều khiển xe do không chú ý quan sát kỹ đã đâm va vào xe mô tô BKS 29X8 - 8513 do ông Nguyễn Hữu Đ điều khiển đi cùng chiều, chở phía sau là bà Trịnh Thị N, Hậu quả ông Đ tử vong. Bị cáo vi phạm Điều 12 Luật giao thông đường bộ. Nguyên nhân xảy ra tai nạn lỗi do bị cáo.
Hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm luật giao thông đường bộ, vi phạm đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến tính mạng con người, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do vậy cần phải được xử lý nghiêm.
[4]. Nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sau khi phạm tội bị cáo đã ân hận về hành vi phạm tội của mình đã thành khẩn khai báo toàn bộ sự việc, bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại để khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại, phía gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được qui định tại điểm b,s khoản 1,2 Điều 51 của BLHS. Với tính chất vụ án, hành vi phạm tội lẽ ra cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian, nhưng xét thấy bị cáo có nhân thân tốt là người dân lao động lương thiện, với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, nghĩ chưa cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội, mà căn cứ khoản 1,2 và 5 Điều 65 của BLHS cho bị cáo được hưởng án treo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của Pháp luật mà cải tạo, sửa chữa sai phạm của mình trở thành người công dân có ích cho xã hội.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo cùng gia đình bị hại đã thống nhất thỏa thuận bồi thường cho gia đình bị hại tổng số tiền 178 triệu đồng, đại diện gia đình bị hại đã nhận đủ và không yêu cầu gì về phần bồi thường. Xét việc thỏa thuận của các bên là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với Pháp luật. Nghĩ nên công nhận phần bồi thường dân sự các bên đã giải quyết xong.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1,2 Điều 51; khoản 1,2 và 5 Điều 65 BLHS khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Vi phạm qui định về tham gia giao thông đường bộ.”
Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn T: 18 ( mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện B, tỉnh Thanh Hóa giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo qui định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án Hình sự.
Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi làm việc thì thực hiện theo qui định của pháp luật về thi hành án hình sự
Về trách nhiệm dân sự: Công nhận bị cáo đã bồi thường xong phần dân sự cho gia đình bị hại.
Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người đại diện hợp pháp cho bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.
Bản án 70/2019/HSST ngày 07/03/2019 về tội vi phạm qui định tham gia giao thông đường bộ
Số hiệu: | 70/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về