Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 05/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 70/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 210/2019/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Hồng S, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Thôn NLT, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình (vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Bùi Công T, sinh năm 1974.

Địa chỉ: Thôn NLT, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Bùi Thị Hồng S trình bày:

Chị và anh Bùi Công T, sinh năm 1974, có địa chỉ tại thôn NLT, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 22/11/1996 được Uỷ ban nhân dân xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn; do bị mất đăng ký kết hôn nên chị đã có đơn đề nghị UBND xã NH xác nhận đã đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Công T.

Về con chung, chị và anh Bùi Công T có 02 con chung là Bùi Thanh T2, sinh ngày 02/10/1997 và Bùi Dương TL, sinh ngày 20/9/2017, hiện tại hai con Bùi Thanh T2 và Bùi Dương TL đang ở với chị. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con Bùi Dương TL, sinh ngày 20/9/2017 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con cùng chị; con Bùi Thanh T2 đã trưởng thành, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung, chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi cho Anh Bùi Công T thông báo thụ lý, thông báo đến phiên công khai chứng cứ và hòa giải tuy nhiên anh T không đến Tòa án.

Tại biên bản làm việc ngày 30/9/2019, tại gia đình anh Bùi Công T, sinh năm 1974, địa chỉ tại thôn NLT, xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Anh T cho biết:

Anh tên là Bùi Công T, sinh năm 1974, là chồng của chị Bùi Thị Hồng S. Anh và chị S tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau được UBND xã NH, huyện T1 chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn thì vợ chồng chung sống với nhau bình thường. Về mâu thuẫn vợ chồng thì không có vấn đề gì nặng nề để vợ chồng phải ly hôn. Theo anh T, anh và chị S có 02 con chung là Bùi Thanh T2, sinh ngày 02/10/1997 và Bùi Dương TL, sinh ngày 20/9/2017. Nay chị S xin ly hôn, đề nghị được nuôi con Bùi Dương TL, không đề nghị giải quyết về tài sản, quan điểm của anh T là không đồng ý ly hôn, anh theo đạo công giáo nên anh tôn trọng luật của tôn giáo, anh không ly hôn. Hiện nay anh chị không chung sống cùng nhau, khi chị S mang thai con Bùi Dương TL được 05 tháng thì chị S tự ý bỏ đi, anh và gia đình đã nhiều lần khuyên chị S nhưng chị S không đồng ý. Anh không đồng ý ly hôn vì con cái và tôn trọng tín ngưỡng của mình. Anh T khẳng định đã nhận được các văn bản của Tòa án, nếu Tòa án giải quyết thì anh xin vắng mặt, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Anh T không ký vào biên bản làm việc. Biên bản có sự chứng kiến của Công an viên và xác nhận của UBND xã NH, huyện T1, tỉnh Thái Bình.

Ngày 22/10/2019, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn giữa chị S và anh T. Chị S đến phiên tòa, anh T vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa được mở lại vào ngày 05/11/2019.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Bùi Thị Hồng S được ly hôn anh Bùi Công T. Về con chung, con Bùi Thanh T2, sinh ngày 02/10/1997 đã trưởng thành nên không đặt ra giải quyết; giao con chung Bùi Dương TL, sinh ngày 20/9/2017 cho chị S được trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Bùi Công T; anh T có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu. Về tài sản chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Bùi Thị Hồng S vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Bùi Công T vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị S và anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Chị Bùi Thị Hồng S và anh Bùi Công T kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị S cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Sau khi kết hôn, S chị chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh chị đã sống ly thân từ tháng 3 năm 2017.

[2.2] Chị S có đơn xin ly hôn anh T, Tòa án đã ra thông báo thụ lý, thông báo đến tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, anh T không đến Tòa án. Ngày 30/9/2019, tại nhà anh Bùi Công T, Tòa án đã lập biên bản làm việc với anh T, anh T thể hiện qua điểm của mình, xác định đã nhận được các văn bản của Tòa án Sg anh T không ký vào biên bản. Anh T không đồng ý ly hôn vì anh cho rằng mâu thuẫn vợ chồng không có gì lớn, vì con cái, vì anh là người theo đạo công giáo nên anh không đồng ý ly hôn. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy, anh chị đã sống ly thân hơn hai năm nay, anh T không đưa ra được phương án để vợ chồng về đoàn tụ chung sống hạnh phúc, bản thân anh T tại biên bản làm việc cũng thừa nhận anh và gia đình cũng khuyên bảo chị S nhiều lần nhưng chị S không đồng ý. Anh T không đến tham gia phiên tòa lần thứ nhất, chị S đến phiên tòa và có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên xét xử lần thứ hai và giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với anh T. Như vậy có thể thấy tình cảm vợ chồng của chị S và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho chị Bùi Thị Hồng S được ly hôn anh Bùi Công T.

[3] Về con chung: Chị S và anh T có 02 con chung là Bùi Thanh T2, sinh ngày 02/10/1997 và Bùi Dương TL, sinh ngày 20/9/2017. Con Bùi Thanh T2 đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết. Đối với con Bùi Dương TL, sinh ngày 20/9/2017 hiện đang ở cùng với chị S, do con Lâm còn nhỏ, dưới 36 tháng tuổi nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cho chị S được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Bùi Công T. Anh T có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Bùi Thị Hồng S phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Diều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Xử cho chị Bùi Thị Hồng S được ly hôn anh Bùi Công T.

2. Về con chung:

Đối với con Bùi Thanh T2 đã trưởng thành nên không đặt ra giải quyết. Giao con chung Bùi Dương TL, sinh ngày 20/9/2017cho chị S được trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Bùi Công T. Anh T có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

3. Về tài sản chung và nợ chung:

Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Nguyên đơn là chị Bùi Thị Hồng S phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị S đã nộp theo Biên lai số 0009220 ngày 09/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chị Bùi Thị Hồng S đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2019/HNGĐ-ST ngày 05/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:70/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về