Bản án 70/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 70/2018/HS-ST NGÀY 26/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 71/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Bùi Quốc T, sinh ngày 17/01/1986 tại thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Khối phố 9, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Quốc M và bà Trần Thị Th; Vợ: Chị Lê Thị Bảo Tr (đã ly hôn); Có 01 con; Tiền sự: Không; Tiền án: 02, cụ thể: Ngày 05/01/2007 bị Tòa án nhân dân thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 05/2007/HSST (chấp hành án xong hình phạt tù ngày 18/01/2012 nhưng chưa thi hành các khoản nộp Ngân sách nhà nước gồm: Án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm và tiền thu lợi bất chính bị truy thu sung công); Ngày 30/9/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 66/2015/HSST (chấp hành án xong hình phạt ngày 15/3/2017); Nhân thân: Ngày 18/8/2006 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh ra quyết định số 1991/QĐ- UBND về việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục trong thời hạn 24 tháng do có hành vi Trộm cắp tài sản; Ngày 13/9/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 50/2007/HSST (chấp hành án xong hình phạt ngày 18/01/2012); Ngày 05/6/2015 bị Công an phường Trần Phú, thành phố Hà Tĩnh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1855/QĐ-XPHC bằng hình thức Phạt tiền về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy (đã thi hành xong); Bị cáo bị tạm giam từ ngày 23/8/2018 đến nay; Có mặt

- Bị hại: Anh Hoàng Thái T1; Sinh năm: 1983; Nơi cư trú: khối phố 3, phường D, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Kỹ sư xây dựng – Có mặt

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Trí T2; Sinh năm 1986; Trú tại: khối phố 3, phường D, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 05/8/2018, Bùi Quốc T đến nhà anh Nguyễn Trí T2 tại số nhà 197 đường D, thuộc khối phố 3, phường D, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh để ăn uống. Sau khi ăn uống được một lúc, T đi lên tầng 2 nhà anh T2 để đi vệ sinh. Khi nhìn qua cửa sổ, T phát hiện nhà anh Hoàng Thái T1 ở số nhà 146 đường C, thuộc khối phố 3, phường D, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh là hàng xóm cạnh nhà anh T2 cửa sổ phòng ngủ tầng 2 không đóng, trên bàn cạnh cửa sổ có 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu ACER màu xám bạc nên nảy sinh ý định trộm cắp chiếc máy tính xách tay để sử dụng. T liền đi ra phía sau tấm bia chắn mưa bằng bê tông dưới chân cửa sổ tầng 2 nhà anh T1 dùng tay lấy trộm chiếc máy tính xách tay nói trên rồi bỏ vào chiếc hộp nhựa màu xanh dương đựng dụng cụ cơ khí của mình để ở tầng 2 và đem về nhà của T ở khối phố 9, phường N, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh cất giấu dưới gầm giường. Sau khi bị phát hiện, T đã giao nộp chiếc máy tính xách tay cùng chiếc hộp nhựa nói trên cho Cơ quan điều tra. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Hoàng Thái T1 chiếc máy tính xách tay, anh T1 không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 77/KLĐG ngày 21/8/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Tĩnh kết luận: 01 máy tính xách tay nhãn hiệu ACER màu xám bạc, đã qua sử dụng trị giá 9.000.000 đồng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên của Hội đồng định giá tài sản.

Bản cáo trạng số 71/CT-VKSTPHT ngày 31/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố bị cáo Bùi Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Bùi Quốc T từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 hộp nhựa màu xanh dương đựng dụng cụ cơ khí thu giữ của bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Quốc T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày đã biết sai, xin lỗi bị hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào khoảng hơn 20 giờ ngày 05/8/2018, tại số nhà 146 đường C, thuộc khối phố 3, phường D, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh, Bùi Quốc T đã lén lút chiếm đoạt 01 chiếc máy tính xách tay nhãn hiệu ACER màu xám bạc trị giá 9.000.000 đồng của anh Hoàng Thái T1 để sử dụng. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết định khung “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhận dân thành phố Hà Tĩnh truy tố Bùi Quốc T về tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo hộ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt tù về tội trộm cắp tài sản và bị xử lý hành chính song không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt mức án thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cần giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì bị cáo không có tình tiết tăng nặng và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “người phạm tội thành khẩn khai báo”, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản riêng, kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

 [5] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật, về mức án đề nghị là thỏa đáng.

 [6] Về vật chứng: 01 chiếc hộp nhựa màu xanh dương đựng dụng cụ cơ khí thu giữ của bị cáo là công cụ, phương tiện phạm tội, vật không có giá trị theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy.

 [7] Về dân sự: Bị hại anh Hoàng Thái T1 đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.

 [8] Đối với anh Nguyễn Trí T2 đã rủ T về nhà nơi T sử dụng để trèo sang nhà anh T1 trộm cắp tài sản nhưng không biết T trộm cắp tài sản nên không xử lý là phù hợp.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố: Bùi Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt Bùi Quốc T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam 23/8/2018.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu và tiêu hủy 01 chiếc hộp nhựa màu xanh dương đậm đựng dụng cụ cơ khí có kích thước 42cm x 34cm thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Bùi Quốc T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:70/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về