Bản án 70/2018/HS-ST ngày 24/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 70/2018/HS-ST NGÀY 24/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:64/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Bỉnh Nh, sinh ngày 22-4-1961, tại thôn Tr, xã T, huyện H, tỉnhTh.

Nơi cư trú: Thôn Tr, xã T, huyện H, tỉnh Th; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Bỉnh H và bà Phạm Thị T (Phạm Thị C); có vợ là Nguyễn Thị H và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1979, con nhỏ nhất sinh năm 1986; tiền án: Bản án số 81/2014/HSST ngày 28-11-2014 của Tòa án nhân dân (viết tắt là TAND) huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt Nguyễn Bỉnh Nh 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 21-02- 2003 bị Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Đánh bạc”, ngày 09-7-2004 bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính, hình thức “Cảnh cáo” về hành vi “Đánh bạc”, ngày 02-10-2008 bị TAND huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm về tội “Đánh bạc”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03 tháng 6 năm 2018, đến ngày 06 tháng 6 năm 2018 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình - được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

Những người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Trọng C, sinh năm 1972, nơi cư trú: Thôn A, xã Th, huyện H, tỉnh Th; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1977, nơi cư trú: Thôn A, xã Th, huyệnH, tỉnh Th; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ ngày 03-6-2018 tại trục đường liên thôn thuộc địa phận thôn G, xã V, huyện H, tỉnh Th, Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang Nguyễn Bỉnh Nh có hành vi cất giấu tại lòng bàn tay trái 02 gói giấy tráng kim màu trắng, được gói bên ngoài bằng một mảnh giấy màu trắng (loại giấy ăn). Bị cáo Nh khai nhận đó là ma túy (Hêrôin), cất giấu để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong 02 gói ma túy trên trước sự chứng kiến của những người làm chứng. Ngoài ra còn thu giữ tại túi quần hậu bên phải 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã cũ và số tiền 40.000đồng.

Bản kết luận giám định số 214/KLGĐ-PC54 ngày 05-6-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng là 0,2569 gam (Không phẩy hai nghìn năm trăm sáu mươi chín gam). Heroine STT:20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số 70/CT-VKSHH ngày 13-9-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố Nguyễn Bỉnh Nh ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh như tội danh và điều luật được viện dẫn trong bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 03-6-2018; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 214/KLGĐ-PC54 ngày 05-6-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; trả lại cho bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã cũ và số tiền 40.000đồng. nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh khai nhận: Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 03-06- 2018 bị cáo đang ở nhà thì có anh X nhà ở C, xã H, huyện H, tỉnh Th đến rủ bị cáo đi cầm cố điện thoại của anh X để bị cáo lấy tiền đi mua ma túy về sử dụng chung. Bị cáo và anh X đi cầm cố điện thoại ở quán điện thoại bị cáo không nhớ địa chỉ được số tiền 500.000đồng, sau đó anh X lấy thêm 100.000đồng đưa cho bị cáo. Bị cáo cầm tiền rồi một mình sang khu vực thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Th gặp và mua 02 gói ma túy Hêrôin của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ với giá 600.000đồng, mục đích để sử dụng, khi về đến địa phận thôn G, xã V, huyện H, tỉnh Th thì Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Bị cáo nhận thấy hành vi tàng trữ chất ma túy của bị cáo là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai của bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 18 giờ 20 phút ngày 03-6-2018; biên bản quản lý và niêm phong vật chứng do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 19 giờ 50 phút ngày 03-6-2018; bản kết luận giám định số 214/KLGĐ-PC54 ngày 05-6-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của những người làm chứng là anh Nguyễn Trọng C và anh Nguyễn Văn M. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ ngày 03-6-2018 tại trục đường liên thôn thuộc địa phận thôn G, xã V, huyện H, tỉnh Th, bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2569 gam ma túy, loại Hêrôin mục đích để sử dụng, bị công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Nh thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội; bị cáo bị áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4] Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rất rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng...trái phép chất ma túy nhưng do mắc nghiện ma túy vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội nghiêm trọng do cố ý, bị cáo có nhân thân xấu, do đó cần xử lý nghiêm minh và phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

 [5] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Toàn bộ số ma túy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thu giữ và quản lý của bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh, sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 214/KLGĐ-PC54 ngày 05-6-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cần tịch thu để tiêu huỷ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã cũ và số tiền 40.000đồng đều là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả cho bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh khai mua của một một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Th với giá 600.000đồng, mục đích để sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được con người cụ thể đã bán ma túy cho bị cáo Nh nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Đối với người đàn ông tên là X đưa cho bị cáo số tiền 600.000đồng để mua ma túy, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành xác minh tại thôn Nh, xã H, huyện H, tỉnh Th có người đàn ông tên là Phạm Ngọc X, sinh năm 1974, hiện nay anh X không có mặt tại địa phương, chưa lấy được lời khai của anh X nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ03-6-2018.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

3.1.Tịch thu tiêu huỷ 0,2432 gam (không phẩy hai nghìn bốn trăm ba mươi hai gam) mẫu gửi giám định và bao gói thu của Nguyễn Bỉnh Nh trong bao niêmphong hoàn lại đối tượng giám định số 214/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sựCông an tỉnh Thái Bình ngày 05-6-2018.

3.2. Trả lại bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen đã cũ và số tiền 40.000đồng (Bốn mươi nghìn đồng) nhưng tiếp tục quản lý số tiền để đảm bảo thi hành án dân sự.

Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày14-9-2018 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cụcThi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Bỉnh Nh có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 70/2018/HS-ST ngày 24/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:70/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về