Bản án 69/2021/HS-ST ngày 25/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 69/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch tiến hành xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2021/TLST-HS, ngày 12 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1988 tại Đồng Nai; Tên gọi khác: Cu; Hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã L, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; con ông: Nguyễn Văn R (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị Kim L, đã ly hôn năm 2016 (theo bản án số 32/2016/HNGĐ-ST ngày 24/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch) và có 01 con chung sinh năm 2013, hiện bị cáo đang sống như vợ chồng với bị cáo Nguyễn Thị N; Giữa bị cáo và N chưa có con chung;

Tiền án: Không;

Tiền sự: Vào ngày 03/01/2020 bị Công an huyện Nhơn Trạch ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi mua dâm, do muốn che dấu nhân thân nên T đã khai tên là Nguyễn Văn Tú, đến ngày 17/3/2020, T đã đóng phạt xong.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 17/12/2020 và chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nhơn Trạch.

2. Nguyễn Thị N, sinh năm 1993 tại thành phố Hồ Chí Minh; Tên gọi khác: Bé Lùn; Hộ khẩu thường trú: phường K, quận N, thành phố Hồ Chí Minh. Địa chỉ hiện nay: Ấp B, xã L, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; con ông: Nguyễn Văn H và bà Phan Thị Trúc L (đã chết); Bị cáo chưa có chồng con, hiện bị cáo đang sống như vợ chồng với Nguyễn Thanh T; Giữa bị cáo và T chưa có con chung.

Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 16/10/2018, bị Tòa án nhân dân Quận 6, thành phố Hồ Chí Minh đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ cở cai nghiện ma túy Phú Nghĩa, tỉnh Bình Phước 12 tháng; đến ngày 10/9/2019 chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 17/12/2020 và chuyển tạm giam đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nhơn Trạch.

(Bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thị N là đối tượng nghiện ma túy, sống chung với nhau như vợ chồng tại ấp Bình Phú, xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Vào khoảng 19 giờ 45 phút ngày 17/12/2020, T và Nhân bàn bạc, thống nhất với nhau mua 300.000 đồng ma túy về để cả hai cùng sử dụng. Sau đó, Nhân lấy 300.000 đồng đưa cho T đi mua ma túy. Sau khi cầm tiền, T điện thoại cho một người tên Tám đô la (không rõ nhân thân) hỏi mua 300.000 đồng ma túy, Tám đồng ý và hẹn T đến đường hẻm khúc cua Ba Long thuộc xã Long Tân, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai để nhận ma túy. Đến 20 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60Y8-3338 là xe T mượn của một người bạn tên Tèo (không rõ nhân thân) chở theo Nhân đi từ nhà của T đến điểm hẹn để nhận ma túy, chờ khoảng 10 phút có một người đàn ông (không rõ nhân thân) chạy chiếc xe Dream (không rõ biển số) đến đưa cho T 01 gói ma túy và lấy số tiền 300.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, T cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 60Y8-3338 chở Nhân đi tìm nơi để sử dụng ma túy. Khi T chạy xe đến gần trường cấp 2 Phú Thạnh thuộc ấp 2, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch thì bị Công an xã Phú Thạnh phát hiện bắt quả tang cùng tang vật và chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai nhân chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản kết luận giám định số: 2872/KLGĐ-PC09 ngày 22/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,2272 gam, loại: Methamphetamine.

Tình tiết tăng nặng: Không có Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Tang vật vụ án:

- 01 gói nylon hàn kín, kích thước khoảng 01cm x 02cm, bên trong chứa tinh thể màu trắng (thu giữ của Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thị N).

- 01 xe mô tô biển kiểm soát 60Y8-3338.

- 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, bên trong có gắn sim mobiphone của Nguyễn Thanh T.

- 01 điện thoại di động hiệu Sam sung màu bạc, bên trong có gắn sim mobiphone của Nguyễn Thị N.

Trước Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thị N đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên phù hợp với các vật chứng, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập tại hồ sơ vụ án.

Tại Cáo trạng số 71/CT-VKSLT, ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thị N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 38, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T từ 14 – 16 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Thị N từ 14 – 16 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 2872/KLGĐ- PC09 ngày 22/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 sim số 0901185820 của Nguyễn Thanh T là công cụ, phương tiện phạm tội.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen của Nguyễn Thanh T là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị N 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung màu bạc có gắn sim mobiphone do không liên quan đến vụ án.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có cơ sở kết luận: Vào ngày 17/12/2020, Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thị N đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, khối lượng 0,2272gam, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng tại ấp 2, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thị N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy nên bị cáo hiểu rất rõ tác hại của ma túy sẽ gây hiểm họa mắc nhiều căn bệnh nguy hiểm, là mầm mống của nhiều loại tội phạm khác nhưng vì xem thường pháp luật các bị cáo vẫn cất giấu trong người để sử dụng, thời điểm phạm tội các bị cáo đều còn tiền sự. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng với hành vi phạm tội của mình.

[4]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

+ Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[5]. Đối với tên Tám đô la và người không rõ nhân thân có hành vi bán ma túy cho Nguyễn Thanh T và Nguyễn Thị N, do chưa rõ nhân thân nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự Cần tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 2872/KLGĐ-PC09 ngày 22/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 sim số 0901185820 của Nguyễn Thanh T là công cụ, phương tiện phạm tội.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen của Nguyễn Thanh T là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị N 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung màu bạc có gắn sim mobiphone do không liên quan đến vụ án.

[7]. Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 60Y8-3338, T khai mượn của một người bạn tên Tèo (không rõ nhân thân), do chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhơn Trạch tiếp tục xác minh, điều tra làm rõ xử lý sau.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh T (Cu) và Nguyễn Thị N (Bé Lùn) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T (Cu): 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 17/12/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N (Bé Lùn): 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo là ngày 17/12/2020.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì bên trong có chứa ma túy sau giám định đã niêm phong số 2872/KLGĐ-PC09 ngày 22/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 sim số 0901185820 của Nguyễn Thanh T là công cụ, phương tiện phạm tội.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen của Nguyễn Thanh T là phương tiện đã dùng vào việc phạm tội.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị N 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung màu bạc có gắn sim mobiphone do không liên quan đến vụ án.

(Hiện vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch quản lý theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/5/2021).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2021/HS-ST ngày 25/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về