Bản án 69/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 69/2021/HSST NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 76/2020/TLST- HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2021/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn P - Sinh ngày 05 tháng 02 năm 1981; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản P, xã Bh, huyện S, Sơn La; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 5/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Lường Văn T, con bà Lường Thị Ơ; Vợ Lường Thị H và 02 con, con lớn sinh năm 2001, con nhỏ sinh năm 2002; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 01/01/2021 cho đến nay. Có mặt.

* Người có quyền lợi liên quan: Anh Lường Văn C; Trú tại: Bản P, xã B, huyện S, Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 50 phút ngày 01/01/2021 Tổ công tác Công an xã Bó Sinh, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại bản Dạ, xã Bó Sinh, huyện Sông Mã qua kiểm tra hành chính đối với Lường Văn P phát hiện tại túi áo khoác của P 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng và một mảnh viên nén màu hồng (P khai nhận là Hồng phiến và Heroine). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ gói nilon màu trắng chứa chất nghi là Heroine và Hồng phiến, 01 xe mô tô, 01 điện thoại di động.

Ngày 02/01/2021 tại Công an huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, Hội đồng bóc mở niêm phong tiến hành cân tịnh và trích mẫu giám định, kết quả: 01 mảnh viên nén màu hồng và chất bột màu trắng thu giữ của Phanh có khối lượng lần lượt là 0,05 gam và 0,06 gam, đã sử dụng toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu P1, P2.

Tại bản kết luận giám định số 165 ngày 04/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu P1 là ma túy; Loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu P2 là ma túy; Loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,06 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,05 gam,loại Methamphetamine và 0,06 gam, Loại Heroine”.

Quá trình điều tra Lường Văn P khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 01/01/2021 P đem theo số tiền 50.000đ điều khiển xe mô tô đến bản Nà Niêng, xã Bó Sinh để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi P nhìn thấy một người đàn ông dân tộc Mông đang đi ngược chiều nên P dừng xe lại hỏi mua được một mảnh hồng phiến và một cục Heroine với số tiền 50.000đ, số ma túy được gói bằng mảnh nilon màu trắng, sau đó P cho gói ma túy vào túi áo khoác rồi điều khiển xe mô tô đi về, khi về đến bản Dạ, xã Bó Sinh thì gặp tổ công tác Công an xã Bó Sinh, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện và bắt quả tang.

Tại Cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 24/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Lường Văn P về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lường Văn P phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo từ 14 - 18 tháng tù. Miễn hình phạt bổ xung cho bị cáo.

Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy vật chứng liên quan. Trả lại cho người có quyền lợi liên quan chiếc xe mô tô; Trả lại chiếc điện thoại di động cho bị cáo. Buộc bị cáo chịu án phí hình sự. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

Tại phiên toà người có quyền lợi liên quan Lường Văn C vắng mặt nhưng tài liệu trong hồ sơ thể hiện, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 26K4 -1515 bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện tội phạm là xe thuộc sở hữu của anh, khi bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy anh không biết. Anh C đề nghị trả lại cho chiếc xe cho anh.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình, thống nhất với lời khai nhận trong quá trình điều tra, truy tố. Nhất trí với nội dung Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận với Kiểm sát viên. Khi được nói lời sau bị cáo đề nghị Toà án xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định pháp luật.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 01/01/2021; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 165 ngày 04/01/2021; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi cất giấu 0,11gam ma tuý (trong đó 0,05 gam, loại Methamphetamine và 0,06 gam, loại Heroine) của bị cáo Lường Văn P đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, không chỉ gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương mà còn ảnh hưởng sức khỏe con người, suy kiệt nòi giống, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm khác.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - Là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ để quyết định một mức hình phạt phù hợp, nhằm trừng phạt, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật, răn đe, phòng ngừa và thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu huỷ. Đối với chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo, xét thấy không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo, nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô Wave nhãn hiệu Honda, biển kiểm soát 26K4-1515 là chiếc xe bị cáo dùng làm phương tiện thực hiện tội phạm, xét thấy chiếc xe thuộc sở hữu của anh Lường Văn C, khi P sử dụng xe đi mua ma túy anh C không biết nên cần trả lại cho anh C quản lý sử dụng.

[7] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông dân tộc Mông bị cáo khai nhận bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do bị cáo không biết tên, tuổi cụ thể của người này, nên không có căn cứ để xác minh mở rộng vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Lường Văn P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Lường Văn P 13 (mười ba) tháng tù - Thời hạn thụ hình tính từ ngày 01/01/2021.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

- Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 mảnh nilon màu trắng.

+ 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

(các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 027669).

- Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động.

- Trả lại cho anh Lường Văn C 01 xe mô tô, biểm kiểm soát 26K4 - 1515.

Theo Quyết định chuyển vật chứng 40/QĐ - VKSSM ngày 24/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/3/2021 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 23/4/2021, Người có quyền lợi liên quan coa quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2021/HSST ngày 23/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:69/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về