Bản án 69/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TU, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 69/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Toà án nhân dân thị xã TU tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 244/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2020 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2020/QĐST- HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Thái Thảo N, sinh năm 1993; thường trú: Tổ 9, Khu phố T, phường V, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; tạm trú: Khu phố BA, phường C, thành phố A, tỉnh Bình Dương; có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Ninh Hồng P, sinh năm 1993; thường trú: Tổ 9, Khu phố T, phường V, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 23/6/2020, các lời khai trong quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Thái Thảo N trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Thái Thảo N và ông Ninh Hồng P tự nguyện tìm hiểu, tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã (nay là phường) V, thị xã TU, tỉnh Bình Dương vào ngày 04/7/2014.

Vợ chồng bà N chung sống hạnh P khoảng 04 năm, sau đó phát sinh mâu thuẫn do ông P không còn quan tâm tới cuộc sống gia đình, ông P không có nghề nghiệp ổn định nhưng không lo làm ăn mà thường xuyên đi chơi đến khuya mới về. Từ khi bà N sinh con đến nay ông P không giúp đỡ bà N chăm sóc con, bà N có nhờ cha mẹ hai bên gia đình khuyên nhủ nhưng ông P không thay đổi. Trước đây, vợ chồng bà N sống chung với cha mẹ chồng ở V, từ khi xảy ra mâu thuẫn bà N đã về nhà cha mẹ ruột sống gần 02 năm, mỗi tháng ông P đến nhà cha mẹ bà N thăm con 01 lần nhưng bà N và ông P không thể ngồi nói chuyện hàn gắn hạnh phúc gia đình.

Bà N và ông P sống ly thân gần 02 năm. Hôn nhân không có hạnh phúc, không thể tiếp tục chung sống nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông Ninh Hồng P.

- Về con chung: Bà N và ông P có 01 con chung tên Ninh P N K, sinh ngày 19/6/2018. Khi ly hôn, bà Thái Thảo N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông Ninh Hồng P cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn ông Ninh Hồng P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do, bà Thái Thảo N đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông P.

Bà N đã đến Tòa án tham gia tố tụng nhiều lần, do con còn nhỏ không ai chăm sóc, bà N đề nghị Tòa án giữ N lời trình bày trong đơn khởi kiện và bản tự khai để xét xử vụ án vắng mặt bà N.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã TU phát biểu tại phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU.

- Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà Thái Thảo N và ông Ninh Hồng P là hôn nhân hợp pháp. Bà N và ông P sống ly thân gần 02 năm, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà N và ông P đã trầm trọng, không thể hàn gắn. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Thái Thảo N.

Về con chung: Cháu Ninh P NK, sinh ngày 19/6/2018 dưới 03 tuổi, hiện tại bà Thái Thảo N đang trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu ông Ninh Hồng P phải cấp dưỡng nuôi con. Bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi con không trái đạo đức và pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Thái Thảo N không yêu cầu giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo kết quả xác minh ngày 18/6/2020 của Tòa án, ông Ninh Hồng P sinh sống và đăng ký thường trú tại Tổ 9, khu phố T, phường V, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU.

[2] Về thủ tục tố tụng và sự vắng mặt của ông Ninh Hồng P: Tòa án đã niêm yết thông báo thụ lý vụ án, đã triệu tập hợp lệ ông P tham gia hòa giải ngày vào các ngày 23/7/2020, ngày 10/8/2020, ngày 28/8/2020; niêm yết các văn bản tố tụng khác và triệu tập hợp lệ ông P tham gia phiên tòa vào các ngày 14/9/2020, ngày 30/9/2020 nhưng ông Ninh Hồng P vắng mặt không có lý do. Bà Thái Thảo N có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự cùng những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, Hội đồng xét xử giải quyết vụ án vắng mặt bà Nvà ông P.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Thái Thảo N và ông Ninh Hồng P tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại phường V, thị xã TU, tỉnh Bình Dương, đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà Thái Thảo N và ông Ninh Hồng P chung sống không hạnh P do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc đến nhau, bà N và ông P không chung sống với nhau 02 năm và không có biện pháp hàn gắn hạnh P gia đình.

Tòa án đã thông báo và triệu tập ông P tham gia các phiên hòa giải nhằm giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn hạnh P gia đình giữa ông P và bà N nhưng ông P vắng mặt không tham gia tố tụng, không có văn bản thể hiện ý kiến của mình trước đơn yêu cầu khởi kiện của bà N. Như vậy, ông P đã không quan tâm đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình với bà N và đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình tại Tòa án.

Ti biên bản xác minh ngày 14/7/2020, Ủy ban nhân dân phường V, thị xã TU cho biết địa phương không biết N nhân mâu thuẫn dẫn tới ly hôn giữa bà N và ông P vì địa phương không nhận được tin báo hay yêu cầu giải quyết.

Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, có nghĩa vụ chung sống với nhau.

Xét thấy, mâu thuẫn giữa bà Thái Thảo N và ông Ninh Hồng P đã trầm trọng, không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà Thái Thảo N yêu cầu ly hôn ông Ninh Hồng P có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Bà Thái Thảo N và ông Ninh Hồng P có 01 con chung tên Ninh P NK, sinh ngày 19/6/2018 hiện nay đang sống với bà N. Bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Khon 3, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp chăm nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Xét thấy, cháu Ninh P NK còn nhỏ, cần sự quan tâm chăm sóc của bà Nguyên, nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của bà N không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại khoản 3, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về tài sản chung và vay nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật và nội dung vụ án.

[7] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: N đơn bà Thái Thảo N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 28, 35, 147, 228, 238, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 19, 56, 57, 81, 82, 83, 84, 85 và Điều 86 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của N đơn bà Thái Thảo N về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” với bị đơn ông Ninh Hồng P.

1.1 Về quan hệ hôn nhân: Bà Thái Thảo N được ly hôn với ông Ninh Hồng P.

1.2 Về con chung: Giao con chung tên Ninh P NK, sinh ngày 19/6/2018 cho bà Thái Thảo N trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Ninh Hồng P không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Thái Thảo N và ông Ninh Hồng P đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Ông Ninh Hồng P được quyền đi lại thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Ninh Hồng P lạm dụng quyền đi lại thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông P. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3 Về tài sản chung và vay nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Bà Thái Thảo N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0038212, ngày 07/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TU, 3. Về quyền kháng cáo: Bà Thái Thảo N và ông Ninh Hồng P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết công khai hoặc tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:69/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về