Bản án 69/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 69/2019/HS-ST NGÀY 06/09/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 56/2019/HS-ST ngày 23 tháng 7 năm 2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 292/2019/HSST-QĐ ngày 21 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

PHẠM ĐĂNG H, giới tính: Nam, sinh ngày 05-11-1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 310/12 đường N, Phường T, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Phạm Tấn P (chết) và bà Tạ Thu N; tiền án: Ngày 01-02-2012, Tòa án nhân dân Quận 10 xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; ngày 25-5-2016, Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”; tiền sự: Không; bị bắt phạm tội quả tang ngày 07-3-2019. (Có mặt).

Bị hại: Trần Thị T, sinh 1966

Địa chỉ: 220/139L đường S, Phường B, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 07-3-2019, Phạm Đăng H điều khiển xe máy hiệu Future, biển số 52U2-7070 đến trước nhà số 18/22M Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3 nhìn thấy chị Trần Thị T đang đi bộ, trên cổ có đeo sợi dây chuyền, H liền nảy sinh ý định chiếm đoạt và cho xe vòng lại, chạy đối diện chị T rồi áp sát dùng tay trái giật sợi dây chuyền nhưng không giật được. H tăng ga bỏ chạy thì bị Tổ tuần tra Đội Cảnh sát hình sự Công an Quận 3 phát hiện đuổi theo bắt giữ đưa về Công an Phường 14, Quận 3 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển giao Công an Quận 3 xử lý. Tại Cơ quan CSĐT-CAQ3, Phạm Đăng H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 76/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 28-6-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3 kết luận: 01 sợi dây chuyền bằng hợp kim vàng 18K, bề mặt được mạ Rhodi (Rh), trọng lượng 1,6671gram vào thời điểm ngày 07-3-2019 có giá là 1.224.170 đồng.

Bản cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 19-7-2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Phạm Đăng H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Đăng H thừa nhận đã có hành vi cướp giật một sợi dây chuyền của chị Trần Thị T với trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 1.224.170 đồng. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; đề nghị xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Về hậu quả của vụ án, đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Về vật chứng của vụ án, trả lại 02 điện thoại di động cho bị cáo; giao chiếc xe hiệu Future biển số 52U2-7070 cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 3 xử lý.

Bị cáo Phạm Đăng H đã nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an Phường 14, Quận 3 lập ngày 07-3-2019, Kết luận định giá tài sản số 76/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 28-6-2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 3; lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng cùng với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Phạm Đăng H là đối tượng đã có tiền án phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng do cố ý, chưa hết thời gian để được xem là đã xóa án tích. Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 07-3-2019, bị cáo điều khiển xe máy hiệu Future biển số 52U2-7070 khi đến trước nhà số 18/22M Trần Quang Diệu, Phường 14, Quận 3 nhìn thấy chị Trần Thị T đang đi bộ trên cổ có đeo sợi dây chuyền, bị cáo chạy lên áp sát và dùng tay trái giật sợi dây chuyền bỏ chạy là đã phạm tội “Cướp giật tài sản” trong trường hợp quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Bị cáo Phạm Đăng H đã bị xử lý nhiều lần về hành vi chiếm đoạt tài sản, do vậy bị cáo hoàn toàn biết rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi sai trái sẽ bị xã hội lên án, pháp luật trừng trị; nhưng do động cơ tham lam và muốn có tiền nhằm để thỏa mãn cho cơn nghiện nên bị cáo đã cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương; do vậy bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi mà mình đã gây ra.

[4] Tuy nhiên cũng xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ thật sự ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt có giá trị không lớn và đã được thu hồi trả cho người bị hại; do đó áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Xét thấy bị cáo cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn, do vậy áp dụng Điều 15, Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét khi lượng hình là có căn cứ.

[5] Về hậu quả của vụ án: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại và người bị hại không có yêu cầu gì thêm do đó tòa miễn xét. Về vật chứng của vụ án: 02 chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo không liên quan đến vụ án nên giao trả lại. Đối với xe máy biển số 52U2-7070, qua xác minh là xe ATTILA có số máy: 023449-AD, số khung: 023449-D do anh Nguyễn Đức T là chủ sở hữu; đối với xe gắn máy nhãn hiệu Honda Future có số máy: JC53E - 1017232, số khung: RLHJC5336DY017343 do bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, Công an Quận 3 đã cho đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn không có sự phản hồi do vậy giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 3 xử lý là có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 15, Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và Lệ phí số 97/2015/QH3 ngày 25-11-2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Phạm Đăng H đã phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Đăng H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt phạm tội quả tang là ngày 07 tháng 3 năm 2019.

Giao trả cho bị cáo 01 chiếc điện thoại hiệu Samsung SM-A500H màu trắng, số Imei 1: 358548/06/672902/7, Imei 2: 358549/06/672902/5 và 01 chiếc điện thoại hiệu Nokia 301 màu đen, số Imei 1: 358340/05/25/253426/8, Imei 2: 358340/05/25/253427/6 (tất cả đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động của máy).

Giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 3 làm thủ tục thông báo trên báo để tìm và trả lại một xe gắn máy hiệu Honda Future, biển số 52U2-7070, số máy: JC53E - 1017232, số khung: RLHJC5336DY017343. Xe đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng hoạt động máy móc bên trong xe. Nếu quá 06 (sáu) tháng kể từ ngày ra thông báo mà không có chủ sở hữu hợp pháp đến nhận xe thì tịch thu và nộp ngân sách nhà nước. Nếu chủ sở hữu hợp pháp là bị cáo trong vụ án thì tịch thu và nộp ngân sách nhà nước.

(Tài sản giao cho Chi cục Thi hành án Dân sự Quận 3 và giao trả theo Lệnh nhập kho vật chứng số 151/CSĐT-HS ngày 29-3-2019 của Công an Quận 3).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

355
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/HS-ST ngày 06/09/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:69/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về