Bản án 69/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG DÂN, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 69/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hồng Dân xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 214/2019/TLST- HNGĐ, ngày 30 tháng 8 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 03 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Trúc L, sinh năm 1988.

Địa chỉ: ấp B, xã V, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Hồ Diệu Hoàng H, sinh năm 1985.

Địa chỉ: ấp B, xã V, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị L vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, anh H vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/8/2019 và bảng tự khai ngày 10/9/2019, nguyên đơn chị Lê Thị Trúc L trình bày như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Trúc L và anh Hồ Diệu Hoàng H có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 27/6/2006. Trong thời gian đầu, vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc, nhưng được một thời gian thì phát sinh nhiều mâu thuẩn, vợ chồng thường xuyên cự cải, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 12 năm nay. Nay chị L nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được chị yêu cầu được ly hôn với chồng chị là anh Hồ Diệu Hoàng H.

Về con chung: Chị L xác định trong quá trình chung sống, chị và anh H có 01 người con chung là cháu Hồ Trúc Hân, sinh ngày 07/4/2006. Hiện tại cháu Hân đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi cháu Hân và chị không yêu cầu cấp dưỡng cho cháu Hân.

Về tài sản chung: Chị L xác định giữa chị và anh H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 10/9/2019, bị đơn anh Hồ Diệu Hoàng H trình bày như sau:

Anh và chị Lê Thị Trúc L có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 27/6/2006. Trong quá trình chung sống, anh và chị L có xảy ra mâu thuẩn, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cự cải và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 12 năm nay. Nay vợ anh yêu cầu ly hôn với anh thì anh không đồng ý, anh chỉ đồng ý ly hôn với điều kiện là vợ anh phải giao con cho anh nuôi.

Về con chung: Quá trình chung sống, anh H xác định giữa anh và chị L có 01 người con chung là cháu Hồ Trúc Hân, sinh ngày 07/4/2006, hiện tại cháu Hân đang sống chung với vợ anh. Anh H xác định nếu ly hôn thì anh yêu cầu được nuôi con và anh không yêu cầu cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Anh H xác định anh và vợ anh không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, anh không có yêu cầu gì.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên Tòa và không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Trúc L được ly hôn anh Hồ Diệu Hoàng H;

2. Về quan hệ con chung: Tiếp tục giao cháu Hồ Trúc Hân, sinh ngày 07/4/2006 cho chị Lê Thị Trúc L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi cháu Hân nhưng anh được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc, con chung không ai có quyền ngăn cản..

3. Về quan hệ tài sản: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Ngoài ra đương sự còn phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết qủa tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật: Chị Lê Thị Trúc L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Hồ Diệu Hoàng H và yêu cầu được nuôi con chung nên căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ án về “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” là đúng quy định.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn anh Hồ Diệu Hoàng H có nơi đăng ký thường trú tại ấp B, xã V, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[3] Nguyên đơn chị Lê Thị Trúc L tuy rằng vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn yêu cầu được xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt đối với chị L. Bị đơn anh Hồ Diệu Hoàng H vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với anh Hồ Diệu Hoàng H.

Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Trúc L và anh Hồ Diệu Hoàng H có tổ chức đám cưới với nhau trên tinh thần tự nguyện, không ai ép buộc và có tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 27/6/2006 nên quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Trong quá trình chung sống, chị L và anh H đều xác định có xảy ra nhiều mâu thuẫn, vợ chồng anh chị thường xuyên cự cãi nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và hiện tại hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 12 năm nay. Nay Chị L yêu cầu ly hôn với anh H thì anh H không đồng ý, anh chỉ đồng ý ly hôn với điều kiện là vợ anh phải giao con cho anh nuôi. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành xác minh đối với ông Nguyễn Văn Ớt và bà Trần Kim Xa. Theo đó, ông Ớt và bà Xa xác định giữa chị L và anh H có phát sinh mâu thuẩn, vợ chồng lúc sống chung thường xuyên cự cải và hai vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 12 năm nay. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho chị Lê Thị Trúc L được ly hôn anh Hồ Diệu Hoàng H.

[4] Về quan hệ con chung: Chị L và anh H đều xác định trong quá trình chung sống chị L và anh H có 01 người con chung là cháu Hồ Trúc Hân, sinh ngày 07/4/2006. Hiện tại cháu Hân đang sống chung với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng. Anh H cũng xác định anh yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Hân hiện tại đang ổn định với chị L, đồng thời cháu Hân có nguyện vọng được theo sống chung với chị L nên tiếp tục giao cháu Hân cho chị L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị L không yêu cầu cấp dưỡng cho cháu Hân nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về quan hệ tài sản: Chị L và anh H xác định giữa chị L và anh H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì chị Lê Thị Trúc L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Về ý kiến phát biểu việc giải quyết vụ án của Kiểm sát viên: Hội đồng xét xử xét thấy việc đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Trúc L được ly hôn anh Hồ Diệu Hoàng H.

2/ Về con chung: Tiếp tục giao cháu Hồ Trúc Hân, sinh ngày 07/4/2006 cho chị Lê Thị Trúc L nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Anh Hồ Diệu Hoàng H không phải cấp dưỡng nuôi cháu Hân nhưng anh được quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản.

3/ Về tài sản chung: Chị L và anh H không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4/ Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Lê Thị Trúc L phải nộp số tiền là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng chị L đã dự nộp số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002741 ngày 30/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu nay chuyển thu toàn bộ số tiền trên thành án phí.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên được quyền kháng nghị bản án này theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2019/HNGĐ-ST ngày 11/11/2019 về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con

Số hiệu:69/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về