Bản án 69/2018/HSST ngày 29/11/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH LONG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 69/2018/HSST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 29 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã BL, tỉnh Bình Phước. Tòa án nhân dân thị xã BL xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2017/HSST ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Minh Tr, sinh năm 1996; Nơi cư trú: Tổ 09, khu phố Ph Th, phường Ph Th, thị xã BL, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Lê Trung Sơn, sinh năm: 1958 và bà Hoàng Thị Qu, sinh năm: 1958; Có 03 chị em, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất là bị cáo; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 27/6/2018 bị Ủy ban nhân dân phường Ph Th, thị xã BL ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã phường thị trấn thời hạn 03 tháng; Ngày 08/8/2018 bị Công an thị xã BL ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 20/08/2018 bị khởi tố bị can về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, bị bắt tạm giam cho đến nay (bị cáo có mặt)

Bị hại:

1/ Ông Nguyễn Anh Vũ K, sinh năm 1996 (Vắng mặt, có đơn xin vắng)

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Tổ 1, ấp ThTh, xã Th Ph, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

2/ Ông Lê S, sinh năm 1983 (Vắng mặt, có đơn xin vắng)

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Tổ 4, ấp ThH, xã ThL, thị xã BL, tỉnhBình Phước.

3/ Ông Lý Ngọc T, sinh năm 1996 (Có mặt)

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Tổ 3, khu phố PhH I, phường PhĐ, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Hồng Ph, sinh năm 1990 (Có mặt)

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Tổ 2, khu phố PhTr, phường HCh, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

2/ Ông Nguyễn Ngọc Ph(Mỳ), sinh năm 1989 (Có mặt)

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Tổ 4, Khu phố PhTr, phường PhĐ, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

3/ Bà Dương Thị L, sinh năm 1974 (Vắng mặt, có đơn xin vắng)

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Tổ 1, ấp ThTh, xã Th Ph, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

4/ Bà Lương Thị Thanh T, sinh năm 1976 (Có mặt)

Nơi đăng ký thường trú: Tổ 3, khu phố PhH I, phường PhĐ, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

Chỗ ở: Tổ 3, khu phố PhH, phường PhĐ, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

5/ Bà Hoàng Thị Qu, sinh năm 1958 (Có mặt)

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Tổ 9, khu phố Ph Th, phường Ph Th, thị xã BL, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 24/7/2018 đến ngày 18/8/2018, bị cáo lợi dụng sự tin tưởng của bạn bè giao tài sản cho bị cáo mượn, bị cáo đã nảy sinh ý định chiếm đoạt mang đi cầm cố, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất:

Khoảng 13 giờ 00 phú, ngày 24/7/2018, bị cáo đến tiệm nét có biển hiệu “StarGame” thuộc phường Ph Đ, thị xã BL chơi game, tại đây bị cáo gặp bạn là Lý Ngọc T cũng đang chơi game. Trong lúc đang chơi do điện thoại hết pin nên bị cáo hỏi mượn điện thoại của T để gọi cho bạn mượn tiền. T đưa điện thoại di động nhãn hiệu SamsungJ3Pro cho bị cáo mượn, bị cáo gọi cho bạn để mượn tiền nhưng không được nên hỏi T cho mượn xe mô tô để đi lòng vòng tìm bạn tiếp tục mượn tiền, T đồng ý nên đưa chìa khóa xe mô tô, loại Sirius màu đỏ trắng, biển số 93C1- 10107 (Là xe của bà Lương Thị Thanh T giao cho T quản lý sử dụng ) để bị cáo đi, khi đi bị cáo chưa trả điện thoại lại cho T, bị cáo chạy lòng vòng khu vực thị xã BL để tìm người mượn tiền nhưng không gặp ai. Lúc này muốn có tiền để tiêu xài và đánh bạc nên bị cáo nẩy sinh ý định mang điện thoại Samsung J3Pro của T đến tiệm điện thoại di động của anh Nguyễn Thành L tại khu vực phường AL, thị xã BL cầm cố được 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Sau khi tiêu xài hết tiền trên, bị cáo tiếp tục cầm cố xe mô tô Sirius biển số 93C1-10107 cho một người tên Tuyền (hiện không rõ lai lịch, địa chỉ) được 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Sau khi cầm xe, bị cáo đến khu vực đường bê tông thuộc ấp Th X, xã ThPh, thị xã BL đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức “Sóc dĩa” và thua hết số tiền này. Không thấy bị cáo mang xe và điện thoại trả nên T đã mượn điện thoại của bạn đang chơi game điện vào điện thoại bị cáo đang giữ của T thì không liên lạc được, đến ngày 28/07/2018 liên lạc được với bị cáo thì bị cáo nói xe đã bị công an giữ và kêu T đưa giấy chứng nhận đăng ký xe cho bị cáo để lấy xe về. Sau khi T đưa giấy chứng nhận đăng ký xe cho bị cáo, bị cáo mang thế chấp cho Tuyền lấy 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) mua ma túy sử dụng và chơi đánh bạc “Sóc dĩa” thua hết.

Lần thứ hai:

Ngày 13/08/2018, bị cáo đến nhà bạn là Nguyễn Anh Vũ K tại ấp ThTh, xã ThPh để chơi. Sau đó bị cáo hỏi K mượn xe mô tô, loại xe Sirius, biển số: 93E1- 046.18 (là xe của bà Dương Thị L giao cho K quản lý) để đi lấy tiền. Mượn được xe bị cáo nẩy sinh ý định cầm cố xe lấy tiền đánh bạc nên mang đi cầm cố cho Nguyễn Ngọc Ph(Mỳ), tại khu vực phường PhĐ, thị xã BL vay 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Sau khi vay được tiền, bị cáo đi đến ấp Th X, xã ThPh, để chơi đánh bạc “Sóc dĩa” và thua hết số tiền này.

Lần thứ 3

Khoảng 12 giờ ngày 17/08/2018, bị cáo nói K đến nhà bị cáo để cùng đi mượn tiền lấy (chuộc) lại xe mô tô Sirius biển số: 93E1-046.18 ra trả cho K. Khi gặp nhau do không muốn đi cùng bị cáo nên K giao xe mô tô loại xe Exciter, biển số 93E1-04705 cho bị cáo mượn tự đi. Bị cáo điều khiển xe đến nhà anh Võ Tấn N để lấy tiền nợ nhưng anh N không có ở nhà. Trên đường về bị cáo nảy sinh ý định mang xe Exciter biển số 93E1- 04705 đi cầm cố lấy tiền để chuộc xe mô tô Sirius biển số 93E1-04618 ra rồi lấy phần tiền dư chơi đánh bạc “Sóc dĩa”. Bị cáo mang xe Exciter biển số: 93E1-04705 cầm cố cho anh Nguyễn Ngọc Ph(Mỳ) lấy 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), bị cáo chuộc xe mô tô Sirius biển số 93E1- 04618 hết 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng), tiền còn lại bị cáo đi đánh bạc thua hết. Đến khoảng 16 giờ ngày 18/08/2018, Bị cáo lại mang xe mô tô Sirius biển số 93E1- 046.18 cầm cố cho anh Nguyễn Hồng Ph, tại khu phố PhTr, phường HCh, thị xã BL được 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) đi đánh bạc thua hết.

Lần thứ 4:

Tối ngày 18/08/2018, sau khi đánh bạc về, bị cáo đến nhà anh Dương Khải H (Bi Dũng), thuộc tổ 04, ấp Th H, xã ThL, thị xã BL uống rượu cùng với Hoàng, Lê S và Đỗ Xuân B. Do thấy rượu và thức ăn đã gần hết nên bị cáo mượn xe mô tô của anh S để đi gặp bạn mượn tiền mua thêm rượu và thức ăn. Anh S đồng ý giao xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 53Y6-5902 cho bị cáo. Sau khi mượn được xe, bị cáo điều khiển đến khu vực khu phố PhX, phường Ph Th, thị xã BL để tìm gặp bạn là Vũ Mạnh D mượn tiền nhưng D không cho mượn. Lúc này bị cáo nảy sinh ý định mang cầm cố xe của anh S lấy tiền tiêu xài nên bị cáo điều khiển xe đến gặp anh Nguyễn Hồng Ph, bị cáo nhờ anh Ph lấy xe mô tô Sirius biển số 93E1-046.18 mà bị cáo cầm cố cho anh Ph vào chiều ngày 18/8/2018 cùng bị cáo đến gặp Nguyễn Ngọc Ph(Mỳ). Khi gặp Ph, bị cáo cầm cố xe mô tô Sirius biển số 93E1- 046.18 cho Ph với số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Sau đó bị cáo cùng Ph đi về nhà Phúc, bị cáo trả cho Ph 3.500.000 đồng (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) là số tiền bị cáo cầm cố xe Sirius biển số 93E1-046.18 cho Ph để vay tiền vào chiều ngày 18/8/2018 và tiếp tục cầm cố xe mô tô kiểu dáng Dream, biển số 53Y6-5902 mượn của anh S cho Ph lấy 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) tiêu xài cá nhân hết.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số: 66 ngày 20/08/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã BL, xác định xe mô tô Exciter biển số: 93E1-047.05 trị giá 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng).

- Tại bản kết luận định giá tài sản số: 57 ngày 20/08/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã BL, xác định xe mô tô biển số 93E1-04618, loại xe Sirius trị giá 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

- Tại bản kết luận định giá tài sản số: 64 ngày 25/09/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã BL, xác định xe mô tô biển số 53Y6-5902, loại xe Dream, màu nâu, số khung: YX100-01577242, số máy: LC150FMG- 01577242 trị giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

- Tại bản kết luận định giá tài sản số: 63 ngày 25/09/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã BL, xác định xe mô tô biển số 93C1-10107, loại Sirius màu đỏ trắng, một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J3pro trị giá 13.130.000 đồng (Mười ba triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

- Về tang vật của vụ án, quá trình điều tra: Cơ quan điều tra thu giữ 01 xe mô tô kiểu dáng Dream biển số 53Y6-5902 số khung: YX100-01577242, số máy: LC150FMG-01577242 (Xe bị cáo mượn của anh Lê S); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, 01 sim số  0964887540; 01 giấy chứng minh nhân dân số 285487250 ghi tên Lê Minh Tr là tài sản của bị cáo.

Cơ quan điều tra thu giữ và đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Nguyễn Anh Vũ K 01 xe mô tô Exciter biển số 93E1- 04705, trả lại cho bà Dương Thị L 01 xe mô tô loại xe Sirius biển số 93E1- 04618.

Đối với xe mô tô loại Sirius màu đỏ - trắng biển số 93C1-10107, điện thoại di động nhãn hiệu SamsungJ3Pro màu vàng có ốp lưng, bên trong có thẻ nhớ Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình giải quyết vụ án, bà Hoàng Thị Qu (là mẹ của bị cáo đã bồi thường cho bà Lương Thị Thanh T số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 57/CT – VKSBL ngày 15/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã BL truy tố bị cáo Lê Minh Tr về tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bị cáo đồng ý với bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã BL truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã BL tại phiên tòa. Bị cáo không tranh luận gì, lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét xử nhẹ cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã BL, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã BL, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân thị xã BL, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa xét xử công khai hôm nay bị cáo Lê Minh Tr hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của minh đã gây ra đó là : Từ ngày 24/7/2018 đến ngày 18/8/2018 bị cáo đã 04 lần thực hiện hành lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bằng hình thức mượn xe mô tô của người bị hại sau đó mang đi cầm cố lấy tiền đánh bạc, sử dụng ma túy và tiều sài cá nhân. Lơi khai nhân tôi cua bi cao hoan toan ph ù hợp với l ời khai của những người bị hại, phù hợp thơi gian , đia điêm c ủa từng lần thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với các biên bản khám nghiệm hiện trường và tang vật thu giữ được, phù hợp vơi kêt luân điêu tra , cáo trạng và kết luận c ủa đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa . Khi thưc hiên hanh vi pham tôi , bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và năng lưc trach nhiêm hinh sư . Trong 04 lần bị cáo thựa hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, trong đó lần thứ nhất bị cáo chiếm đoạt xe mô tô Sirius biển số 93C1-10107 Sirius màu đỏ trắng và một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J3pro của bị hại Lý Ngọc T vào ngày 24/7/2018 trị giá 13.130.000 đồng; Lần thứ hai bị cáo chiếm đoạt xe mô tô Sirius biển số 93E1- 04618 của bị hại Nguyễn Anh Vũ K vào ngày 13/8/2018 trị giá 5.000.000 đồng; Lần thứ ba bị cáo chiếm đoạt xe mô tô Exciter biển số 93E1-047.05 của bị hại Nguyễn Anh Vũ K vào ngày 17/8/2018 trị giá 18.000.000 đồng là đủ định lượng cấu thành tội phạm. Đối với lần thứ tư bị cáo chiếm đoạt xe mô tô kiểu dáng Dream biển số 53Y6-5902 màu nâu của anh Lê S vào ngày 18/8/2018 trị giá 2.000.000 đồng là không đủ định lượng cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, ngày 08/8/2018 bị cáo đã bị Công an thị xã BL ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản là tình tiết định tội đối với lần phạm tội ngày 18/8/2018. Vì vậy xác định tổng trị giá 04 lần bị cáo chiếm đoạt tài sản của những người bị hại là 38.130.000 đồng (Ba mươi tám triệu một trăm ba mươi nghìn đồng). Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thị xã BL truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tại phiên tòa xét xử công khai hôm nay có đầy đủ cơ sở khách quan kết luận bị cáo Lê Minh Tr phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Về quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát : Tại phiên tòa đại diên Viên kiêm sat vân giư nguyên quan điêm truy tô bi cao theo như ban cao trang và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 175; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xư phat bị cáo Lê Minh Tr từ 24 đến 30 tháng tù.

- Áp dụng Điều 46, Điều 47, điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 xe mô tô kiểu dáng Dream biển số 53Y6-5902 màu nâu, số khung: YX100-01577242, số máy: LC150FMG-01577242

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, 01 sim số 0964887540; 01 giấy chứng minh nhân dân số 285487250 tên Lê Minh Tr.

- Áp dụng Điều 589 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo phải bồi thường cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Ngọc Ph(Mỳ) 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng); ông Nguyễn Hồng Ph 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Buộc bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

[4] Về tính chât mưc đô hanh vi pham tôi , nhân thân , tình tiết tăng nặng , giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đ ối với bị cáo: Hành vi của bị cáo là xem thường pháp luật, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, tội phạm đã hoàn thành. Xét về nhân thân của bị cáo, bị cáo có 2 tiền sự đó là: Ngày 22/4/2018 bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 27/6/2018 bị Ủy ban nhân dân phường Ph Th, thị xã BL ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã phường thị trấn thời hạn 03 tháng và ngày 08/8/2018 bị Công an thị xã BL ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản. Lẽ ra sau khi bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, bị cáo phải lấy đó làm bài học, cố gắng lao để nuôi sống bản thân, giúp đỡ gia đình. Trái lại, do xem thường pháp luật, đam mê đánh bạc, nghiện ma túy, lười biếng lao động nên bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của những người bị hại mang đi cầm cố lấy tiền để phục vụ cho nhu cầu cá nhân. Từ ngày 24/7/2018 đến ngày 18/8/2018 bị cáo liên tiếp thực hiện 04 lần hành vi phạm tội vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử cần xử phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo nhằm răn đe giáo dục bị cáo và làm gương cho người khác.

Tuy nhiên, quá trình Tòa án chuẩn bị xét xử bị cáo có tác động gia đình và mẹ của bị cáo là bà Hoàng Thị Qu đã bồi thường cho bà Lương Thị Thanh T số tiền 6.000.00 đồng (Sáu triệu đồng), bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại phiên tòa, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi áp dụng hình phạt đồi với bị cáo.

Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Vê tang vật của vụ án:

Đối với 01 xe mô tô Exciter biển số 93E1- 04705 điều tra xác định được là tài sản của bị hại Nguyễn Anh Vũ K và 01 xe mô tô loại xe Sirius biển số 93E1- 04618 là tài sản của bà Dương Thị L (là mẹ của bị hại K) bà L giao xe cho ông K quản lý. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho ông K và L 02 xe mô tô trên là có căn cứ theo quy định của pháp luật .

Đối với 01 xe mô tô kiểu dáng Dream biển số 53Y6-5902 màu nâu, số khung: YX100-01577242, số máy: LC150FMG-01577242 bị hại Lê S không cung cấp được giấy chứng nhận đăng ký xe chứng minh chủ sở hữu. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã yêu cầu Phòng cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bình Phước xác minh chủ sở hữu. Tại phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 06/11/2018 của phòng PC67 Công an tỉnh Bình Phước xác định không tìm thấy dữ liệu tra cứu chiếc xe trên. Cơ quan điều tra, đã thông báo tìm kiếm chủ sở hữu theo quy định nhưng vẫn không xác định được chủ sở hữu. Do đó, cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, 01 sim số 0964887540; 01 giấy chứng minh nhân dân số 285487250 ghi tên Lê Minh Tr là tài sản và giấy tùy thân của bị cáo không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

[6] Vê trách nhiệm dân sự:

Bị hại Nguyễn Vũ Anh K đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là xe mô tô Exciter biển số 93E1-047.05. Bà Dương Thị L đã nhận lại chiếc xe mô tô Sirius biển số 93E1-04618 và giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Dương Thị L là tài sản của bà L giao cho ông K quản lý bị chiếm đoạt. Quá trình điều tra ông K và bà Loan không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì. Do đó, Hội đồng xét xử không xem  xét.

Chiếc xe mô tô Sirius biển số 93C1-10107 Sirius màu đỏ trắng là tài sản của bà Lương Thị Thanh T (là mẹ của bị hại Lý Ngọc T). Chiếc xe trên bà T giao cho ông T quản lý sử dụng và 01 diện thoại di động Samsung J3pro của ông T bị bị cáo chiếm đoạt. Quá trình chuẩn bị xét xử bà Hoàng Thị Qu (là mẹ của bị cáo) đã bồi thường cho bà T 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng). Tại phiên Tòa bà T và ông T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét

Bà Hoàng Thị Qu là mẹ của bị cáo đã bồi thường cho bà Lương Thị Thanh T số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng), bà Qu không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền trên. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét

Tại phiên tòa, bị hại Lê S vắng mặt, tuy nhiên quá trình điều tra và tại đơn xin vắng mặt ngày 21/11/2018 ông Sỹ trình bày ông không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét

Tại phiên tòa, Ông Nguyễn Ngọc Ph yêu cầu bị cáo phải bồi thường 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng) ông Ph cho bị cáo vay khi nhận cầm cố xe mô tô Exciter biển số 93E1-047.05 và xe mô tô Sirius biển số 93E1-04618. Xét thấy khi nhận cầm cố 02 xe mô tô trên ông Ph không biết đó là tài sản do bị cáo phạm tội mà có. Do đó, yêu cầu của ông Ph là có căn cứ nên được hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại phiên tòa, ông Nguyễn Hồng Ph yêu cầu bị cáo phải bồi thường 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) ông Ph cho bị cáo vay khi nhận cầm cố xe mô tô kiểu dáng Dream biển số 53Y6-5902. Xét thấy khi nhận cầm cố chiếc xe trên ông Ph không biết đó là tài sản do bị cáo phạm tội mà có. Do đó, yêu cầu của ông Ph là có căn cứ nên được hội đồng xét xử chấp nhận

 [7] Về án phí:

Theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 23 và Danh mục án phí lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định “Người bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm” “Án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng” “Nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hình sự được thực hiện theo quy định tại Điều 26 và Điều 27 của Nghị quyết này”. Do đó, bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 725.000 đồng (Bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về xử lý trách nhiệm dân sự, xử lý tang vật của vụ án, xử lý án phí là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận

 [8] Vê vấn đề khác:

Đối với việc bị cáo khai sau khi mượn được xe mô tô Sirius 93C1-10107 màu đỏ trắng từ bị hại Lý Ngọc T và giấy chứng nhận đăng ký xe bị cáo mang đi cầm cố cho một người tên Tuyền (không rõ họ tên đầy đủ và địa chỉ). Hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân, địa chỉ của người tên Tuyền nên không đề cập xử lý. Khi nào làm rõ được sẽ sử lý sau.

Đối với việc bị cáo khai, bị cáo cầm cố điện thoại di động Samsung J3pro của bị hại Lý Ngọc T cho ông Nguyễn Thành L. Quá trình điều tra không thu giữ được điện thoại trên đồng thời ông L không xác định được có nhận cầm cố chiếc điện thoại trên từ bị cáo hay không vì thời gian đã lâu và không có sổ sách ghi chép. Do đó, không có cơ sở xác định bị cáo cầm cố chiếc điện thoại trên cho ông L nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với ông L là phù hợp.

Đối với việc ông Nguyễn Ngọc Ph và ông Nguyễn Hồng Ph nhận cầm cố xe do bị cáo chiếm đoạt của người bị hại Nguyễn Vũ Anh K và Lê S. Tuy nhiên khi nhận cầm cố, ông Ph, ông Ph không biết xe là do bị cáo phạm tội mà có. Vì vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với ông Ph, ông Ph là phù hợp

Đối với việc bị cáo khai nhận sau khi cầm cố xe chiếm đoạt được, bị cáo sử dụng tiền để mua ma túy của một người thanh niên không rõ tên tuổi ở khu vực xã ThL và đánh bạc tại đường bê tông thuộc ấp ThX, xã ThPh, thị xã BL nhưng không biết những người tham gia đánh bạc với bị cáo là ai. Cơ quan điều tra đang xác minh làm rõ, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

Từ các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1/ Tuyên bố bị cáo Lê Minh Tr phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 175, điểm g khoản 1 Điều 52, các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Xử phạt bị cáo Lê Minh Tr 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/8/2018

2/ Xử lý tang vật của vụ án:

Căn cứ Điều 46, Điều 47, điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 xe mô tô kiểu dáng Dream biển số 53Y6-5902 màu nâu, số khung: YX100-01577242, số máy: LC150FMG-01577242

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, 01 sim số 0964887540; 01 giấy chứng minh nhân dân số 285487250 tên Lê Minh Tr.

3/ Xử lý trách nhiệm dân sự:

Căn cứ điều 589 Bộ luật dân sự năm 2015: Buộc bị cáo phải bồi thường cho:

Ông Nguyễn Ngọc Ph(Mỳ) 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng)

Ông Nguyễn Hồng Ph 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng)

4/ Xử lý án phí sơ thẩm:

Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 23 và Danh mục án phí lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 725.000 đồng (Bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 69/2018/HSST ngày 29/11/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:69/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Long - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về