TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 69/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/12/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG
Ngày 29 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 219/2017/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2017 về Tranh chấp ly hôn và nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2017, Quyết định hoãn phiên tòa số 39/2017/QĐST- HNGĐ ngày 22 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị Hồng N, sinh năm 1991. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn HC, xã LA, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn 5, xã VT, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Vũ Văn T, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn HC, xã LA, huyện VB, thành phố Hải Phòng.Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 8 năm 2017, bản tự khai và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Đoàn Thị Hồng N trình bày:
Chị và anh Vũ Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LA, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 04-12-2013. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hoà thuận được hai năm thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp tính nhau, nhiều lần xảy ra xô sát, bất hòa. Do mâu thuẫn vợ chồng nên từ tháng 9/2015 đến nay chị đã bỏ về gia đình ở thôn 5, xã VY, huyện VB, thành phố Hải Phòng sinh sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T theo quy định của pháp luật.
Về con chung: Chị và anh Vũ Văn T có 01 con chung là Vũ Hoàng Hải B, sinh ngày 11-9-2014 hiện đang ở với anh T. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chị xin tự giải quyết với anh T.
Về tài sản: Chị và anh Vũ Văn T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Vũ Văn T xác nhận mối quan hệ giữa anh và chị Đoàn Thị Hồng N được xác lập như chị N trình bày là đúng thực tế. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn do chị N tự ý bỏ về gia đình ở thôn 5, xã VT, huyện VB, thành phố Hải Phòng sinh sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị N xin ly hôn anh đồng ý ly hôn.
Về con chung: Anh và chị Đoàn Thị Hồng N có 01 con chung là Vũ Hoàng Hải B, sinh ngày 11-9-2014, hiện đang ở với anh. Khi ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao con chung cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con anh xin t ự giải quyết với chị N.
Về tài sản: Anh và chị Đoàn Thị Hồng N không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên toà chị Đoàn Thị Hồng N vẫn giữ nguyên lời trình bày và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn T. Về con chung, chị đề nghị Tòa án giao con chung cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị xin tự giải quyết với anh T. Về tài sản chị và anh T không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đồng thời phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, việc xét xử vắng mặt bị đơn cũng như các hoạt động tố tụng khác. Nguyên đơn chấp hành yêu cầu của Tòa án về việc giao nộp chứng cứ tham gia phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa, bị đơn không tham gia phiên họp, phiên hòa giải, phiên tòa. Tuy nhiên, việc bị đơn vi phạm quyền và nghĩa vụ tố tụng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.
Về nội dung vụ án án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Về hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Thị Hồng N được ly hôn với anh Vũ Văn T. Về con chung: Giao con chung Vũ Hoàng Hải B, sinh ngày 11-9-2014 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị N xin tự giải quyết với anh T nên không đặt ra để giải quyết. Về tài sản: chị N và anh T xác nhận không có tài sản chung, không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết. Về án phí: Chị Đoàn Thị Hồng N phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Quan hệ tranh chấp của vụ án về việc ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
[2] Bị đơn anh Vũ Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa, tuy nhiên anh Vũ Văn T có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Về nội dung vụ án: Chị Đoàn Thị Hồng N và anh Vũ Văn T kết hôn ngày 04-12-2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã LA, huyện VB, thành phố Hải Phòng, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận đến tháng 9 năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp tính nhau, luôn bất đồng quan điểm dẫn đến xô sát, bất hòa. Từ tháng 9 năm 2015 đến nay chị N đã về gia đình ở xã VT, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng sinh sống. Vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau. Nay chị N nhận thấy tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T, anh T vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án anh T đồng ý ly hôn với chị N. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị N và anh T đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, yêu cầu của chị Đoàn Thị Hồng N xin ly hôn với anh Vũ Văn T phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình được chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị Đoàn Thị Hồng N và anh Vũ Văn T có một con chung là Vũ Hoàng Hải B, sinh ngày 11-9-2014 hiện nay đang ở với anh T. Khi ly hôn, chị N đề nghị Tòa án giao con chung cho anh T nuôi dưỡng, anh T đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét yêu cầu, đề nghị về việc nuôi con của anh chị, Hội đồng xét xử nhận định: Căn cứ vào điều kiện nuôi con của chị N và anh T, mặt khác để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con cần chấp nhận yêu cầu của chị N, giao con chung Vũ Hoàng Hải B , sinh ngày 11-9-2017 cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chị N xin tự giải quyết với anh T nên Tòa án không đặt ra để giải quyết.
[5] Về tài sản: Chị Đoàn Thị Hồng N và anh Vũ Văn T xác nhận không có tài tài sản chung, không yêu cầu nên Toà án không đặt ra để giải quyết.
[6] Về án phí: Căn cứ Điều 146, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chị Đoàn Thị Hồng N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 146, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Đoàn Thị Hồng N được ly hôn với anh Vũ Văn T.
2. Về nuôi con chung: Giao con chung Vũ Hoàng Hải Bình, sinh ngày 11-9-2014 cho anh Vũ Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chị N tự giải quyết với anh T. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản: Chị Đoàn Thị Hồng N và anh Vũ Văn T xác nhận không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Chị Đoàn Thị Hồng N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. chị N đã nộp tạm ứng 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2010/8008 ngày 04-10-2017. Chị Đoàn Thị Hồng N đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền kháng cáo lên toà án cấp trên để yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người đựơc thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 69/2017/HNGĐ-ST ngày 29/12/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung
Số hiệu: | 69/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về