TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 68/2021/HS-ST NGÀY 16/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 57/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Lê Công C, sinh ngày 10 tháng 5 năm 1977 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn 1, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Công S và bà Hoàng Thị T; có vợ là Vũ Thị T1 và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 175/QĐ-XPHC ngày 08 tháng 7 năm 2020 của Công an huyện A, thành phố Hải Phòng xử phạt vi phạm hành chính đối với Lê Công C về hành vi Trộm cắp tài sản với mức phạt là 1.000.000 đồng. Lê Công C đã chấp hành quyết định xử phạt ngày 25 tháng 7 năm 2021 (chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính); nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2016/HSST ngày 23 tháng 9 năm 2016, Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xử phạt Lê Công C 30 tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” (đã được xóa án tích); bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04 tháng 5 năm 2021, chuyển tạm giam từ ngày 12 tháng 5 năm 2021 đến nay; có mặt.
- Người chứng kiến: Ông Ngô Văn T và ông Ngô Văn Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 04 tháng 5 năm 2021, tổ công tác Công an xã H tiến hành làm nhiệm vụ tuần tra trên địa bàn xã, khi đến thôn N, xã H phát hiện đối tượng Lê Công C có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác tiến hành kiểm tra và thu giữ trong lòng bàn tay trái của C 01 túi nilon theo C khai là ma túy đá. Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 túi nilon màu trắng, kích thước 04x06cm bên trong chứa chất ma túy đá, 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell màu đen, 01 xe mô tô hiệu Sirus màu trắng không biển số đã qua sử dụng và số tiền 300.000 đồng.
Khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Công C thu giữ: Trên mặt bàn phòng ngủ của Lê Công C 01 ống nhựa màu vàng dài 08cm một đầu vót nhọn, 01 bật lửa.
Tại Kết luận giám định số 298/KLGĐ-MT ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, có khối lượng 4,97gam là loại Methamphetamine.
Tại Cơ quan điều tra, Lê Công C khai khai: C là đối tượng nghiện ma túy từ năm 2021. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 04 tháng 5 năm 2021, C điều khiển xe Sirius không biển số đi từ nhà thuộc thôn 1, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng đến khu vực thôn D, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng mua 01 gói ma túy đá của người đàn ông không quen biết với số tiền 2.500.000 đồng mục đích về sử dụng khi đi đến thôn N, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng thì bị lực lượng Công an bắt quả tang thu giữ vật chứng nêu trên. Số tiền mua ma túy là do bị cáo lao động mà có. 01 ống nhựa màu vàng dài 08cm một đầu vót nhọn, 01 bật lửa Cơ quan Công an thu giữ khi khám xét nơi ở của bị cáo là dụng cụ để bị cáo sử dụng ma túy. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius bị cáo mua của một người không quen biết, khi mua không có giấy tờ xe, không có biển số.
Tại phiên tòa, bị cáo Lê Công C đã khai nhận như nội dung trên.
Tại Cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 10 tháng 8 năm 2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương truy tố bị cáo Lê Công C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt: Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Công C từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù về tội: "Tàng trữ trái phép trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 ống nhựa màu vàng dài 08cm một đầu vót nhọn, 01 bật lửa. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell màu đen và số tiền 300.000 đồng nhưng tạm giữ số tiền 300.000 đồng để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu trắng, theo lời khai của bị cáo, Cơ quan điều tra đã ủy thác điều tra nhưng chưa có kết quả nên Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì nên các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về tội danh:
[2] Lời khai của bị cáo Lê Công C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai những người chứng kiến ông Ngô Văn T2 và ông Ngô Văn Đ, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với biên bản khám xét, phù hợp với vật chứng thu giữ, phù hợp với Kết luận giám định số 4298/KLGĐ-MT ngày 07 tháng 5 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ xác định: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 04 tháng 5 năm 2021, tại thôn N, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng, bị cáo Lê Công C có hành vi cất giấu trái phép 4,97 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng.
[3] Theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính Phủ thì Methamphetamine là chất ma túy thuộc danh mục II, STT 323, danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành.
[4] Hành vi cất giấu Methamphetamine trái phép mục đích để sử dụng của bị cáo Lê Công C đã phạm vào tội:“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Về tình tiết định khung hình phạt:
[5] Như trên đã nêu, bị cáo Lê Công C đã có hành vi cất giấu trái phép 4,97 gam ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Nên hành vi của bị cáo đã vi phạm điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật Hình sự.
- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:
[6] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm họa đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
- Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[7] Về nhân thân: Bị cáo Lê Công C có 01 tiền án đã được xóa án và 01 tiền sự chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính, nên bị cáo là người có nhân thân xấu.
[8] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Công C không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[9] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Công C thành khẩn khai báo, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Về hình phạt bổ sung:
[10] Xét bị cáo Lê Công C, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, thực hiện hành vi phạm tội không mang tính chất vụ lợi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về vật chứng:
[11] Lượng ma túy còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, 01 ống nhựa màu vàng dài 08cm một đầu vót nhọn, 01 bật lửa bị cáo dùng để sử dụng ma túy nên tịch thu tiêu hủy. Một điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell màu đen và số tiền 300.000 đồng thuộc sở hữu của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ số tiền 300.000 đồng để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.
- Về vấn đề khác:
[12] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo ở thôn D, xã H vào sáng ngày 04 tháng 5 năm 2021 hiện chưa xác định được tên, tuổi cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
[13] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng thu giữ của bị cáo hiện chưa xác định được chủ sở hữu, nên Cơ quan điều tra tách ra xử lý sau.
- Về án phí:
[14] Bị cáo Lê Công C phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.
- Về quyền kháng cáo:
[15] Bị cáo Lê Công C có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Công C 04 (Bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Thời hạn tù của bị cáo C tính từ ngày 04 tháng 5 năm 2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo C.
Về vật chứng: Căn cứ điểm a, điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, 01 ống nhựa màu vàng dài 08cm một đầu vót nhọn, 01 bật lửa. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Iphone 5 màu trắng, 01 điện thoại nhãn hiệu Mobell màu đen và số tiền 300.000 đồng nhưng tạm giữ số tiền 300.000 đồng để bảo đảm nghĩa vụ thi hành án.
(Đặc điểm Vật chứng theo Biên Bản giao nhận vật chứng ngày 11 tháng 8 năm 2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A và Chi cục Thi hành án dân sự huyện A và Biên lai thu tiền số 3247 ngày 11 tháng 8 năm 2021 của Chi cục Thi hành án huyện A).
Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 135; khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016 buộc bị cáo Lê Công C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 68/2021/HS-ST ngày 16/09/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 68/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về