Bản án 68/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 68/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020 đối với:

Bị cáo: Lò Văn V - sinh ngày 10/10/1984, tại tỉnh Điện Biên;

Nơi cư trú: bản N, xã N1, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Lào; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn P và bà Lò Thị P1; chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: Quyết định số 07/QĐ-TA ngày 28/12/2016, Tòa án nhân dân huyện Điện Biên áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc 24 tháng do trộm cắp tài sản, sử dụng trái phép chất ma túy, được giảm 02 tháng. Ngày 29/10/2018, Lò Văn V chấp hành xong.

Ngày 26/7/2020, bị cáo bị bắt tạm giữ đến ngày 04/8/2020 chuyển tạm giam, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

- Người bào chữa: Ông Ngô Xuân P2 – Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Phạm Hữu L và cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Thái Bình. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 50 phút ngày 26/7/2020, tại khu vực Bến xe khách H ở phường T, thành phố T1, Tổ công tác của Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thái Bình nghi trong chiếc túi du lịch màu đỏ có mác Thủ đô Vàng do Lò Văn V đang đeo trên vai có chứa ma túy. Tổ công tác đến yêu cầu Lò Văn V cho kiểm tra, phát hiện bên trong túi có 01 áo sơ mi màu xanh, 01 áo gió màu xanh, 01 quần vải màu xanh đựng trong túi nilon màu đỏ có chữ “Thái Dương hạnh phúc đến mọi nhà”, 01 áo khoác màu đen có mác “Dần Trường madein Việt Nam”, 01 áo sơ mi màu trắng có kẻ sọc, 01 áo phông màu xanh tím than có kẻ sọc, 01 quần bò màu xanh. Kiểm tra áo khoác màu đen có mác “Dần Trường made in Việt Nam” phát hiện bên trong túi áo bên phải có 01 gói nilon trong suốt bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục, Lò Văn V khai là ma túy, V mang hộ người khác lấy công. Tổ công tác đã niêm phong trong phong bì dán kín, trên mép dán có chữ ký của V. Sau đó Tổ công tác đưa Lò Văn V về trụ sở Công an phường T, thành phố T1, kiểm tra người thu tại túi quần bên phải 01 điện thoại nhãn hiệu Itell màu xanh đã cũ.

Quá trình điều tra, Lò Văn V khai: sáng ngày 25/7/2020, Sùng A P3 sinh năm 1988, trú tại bản T2, xã N2, huyện Đ, tỉnh Điện Biên là bạn của V gọi điện rủ V xuống nhà P3 chơi. Khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, V đến nhà P3, P3 đã lấy heroin và 02 viên ma túy tổng hợp ra cho V và P3, sau đó P3 sắp cơm mời V cùng ăn. Trong lúc ăn cơm, P3 có rủ V cùng P3 đi Thái Bình để giao hàng cho bạn P3, V hiểu là đi giao ma túy. V nói với P3 là mình không có tiền, thì P3 bảo là P3 sẽ trả hết tiền ăn, tiền xe và còn cho V 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, V đồng ý. Sau đó, V về nhà lấy 01 chiếc áo gió, 01 chiếc quần dài và 01 áo sơ mi cho vào túi nilon màu đỏ. Khoảng 16 giờ 30 phút, P3 đi xe máy đến nhà V, V cầm túi quần áo ra cổng, đưa cho P3, P3 bỏ túi quần áo của V vào bao tải màu đỏ rồi để ở bụng xe máy. P3 chở V bằng xe máy lên bến xe Đ để bắt xe ô tô về T1. Khi đến bến xe Đ, P3 lấy chiếc túi du lịch màu đỏ cất trong bao tải ra đưa cho V cầm và nói “trong túi có hàng”, V hiểu là có ma túy nhưng không rõ số lượng là bao nhiêu, nói trong túi du lịch có gói Heroine. V xách túi du lịch đứng chờ P3 đi gửi xe máy rồi cả hai người lên xe L1 biển số 27B-000.94. Khi xe dừng tại Trạm dừng nghỉ S, trong lúc đi vệ sinh, P3 nói với V: “Nay mang ít hàng heroin về cho đứa bạn thử”, V hỏi lại P3: “Nhiều không?” thì P3 trả lời: “mang ít thôi” rồi cả hai người lại lên xe ô tô nằm. Khoảng hơn 6 giờ 30 phút ngày 26/7/2020, xe ô tô về đến Bến xe H, thành phố Thái Bình; V và P3 cùng xuống xe, V đứng chờ lấy túi du lịch còn P3 điện thoại cho bạn ra lấy ma túy, P3 đi trước, V đi sau khoác túi du lịch trên vai; vừa đi được một đoạn thì P3 nói với V: “Chờ ở đây một lát, bạn em đến lấy hàng rồi mình đi ăn sáng”, thế là V đứng lại còn P3 đi đâu V không biết. Ngay sau đó, V bị Công an kiểm tra, bắt giữ.

Bản kết luận giám định số 281/KLGĐ-PC09 ngày 29/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục trong phong bì niêm phong ghi: Vật chứng quản lý của Lò Văn V, sinh năm 1984, ĐKHKTT tại bản N, xã N1, huyện Đ, tỉnh Điện Biên ngày 26/7/2020 có khối lượng là 31,9957 gam. Phòng KTHS – Công an tỉnh Thái Bình không đủ điều kiện kết luận. Đề nghị Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thái Bình trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an giám định bổ sung. Hoàn lại đối tượng giám định: 31,7418 gam”.

Bản kết luận giám định số 5057/C09-TT2 ngày 03/8/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục gửi giám định là ma túy, loại Heroine (lượng nhỏ)”.

Cáo trạng số 63/CT-VKSTB ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã truy tố Lò Văn V về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đối với Sùng A P3, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, triệu tập để làm việc nhưng P3 không có mặt tại địa phương, người thân của P3 không biết P3 đi đâu, làm gì nên chưa có căn cứ xác định ngày 25/7/2020, P3 có phải là người thuê V và cùng V mang ma túy heroin từ Đ về T1 hay không; Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi có đủ căn cứ xác định Sùng A P3 có liên quan đến hành vi phạm tội của Lò Văn V sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa;

Bị cáo Lò Văn V khai nhận hành vi của mình như đã khai tại Cơ quan điều tra.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố bị cáo Lò Văn V phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”;

+ Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 250, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lò Văn V từ 15 năm đến 16 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

+ Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động và quần áo;

+ Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không bào chữa, bị cáo thừa nhận mình phạm tội “vận chuyển trái phép chất ma túy” như Viện Kiểm sát truy tố; bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo không yêu cầu nhận lại điện thoại và quần áo vì những tài sản này đều quá cũ, giá trị sử dụng không đáng kể.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình và tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết pháp luật; như vậy, ngoài tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về quyết định tố tụng, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 08 giờ 30 phút ngày 26/7/2020 tại Trụ sở Công an phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình (Bút lục từ số 35 đến số 38);

- Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thái Bình lập hồi 09 giờ 45 phút ngày 26/7/2020 tại Trụ sở Công an phường Tiền Phong, thành phố Thái Bình (Bút lục số 43);

- Bản kết luận giám định số 281/KLGĐ-PC09 ngày 29/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (Bút lục số 54);

- Bản kết luận giám định số 5057/C09-TT2 ngày 03/8/2020 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: (Bút lục số 57);

- Lời khai người chứng kiến: anh Đỗ Văn T3, sinh năm 1999 và anh Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1990, đều trú tại: thôn Đ1, xã P4, thành phố T1, tỉnh Thái Bình (Bút lục từ số 181 đến số 184, từ số 185 đến số 188);

- Quá trình điều tra Lò Văn V khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ tài liệu đã thu thập trong quá trình điều tra (Bút lục từ số 115 đến số 129, từ số 135 đến số 164);

Cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 25/7/2020, Lò Văn V vận chuyển trái phép 01 gói ma túy, loại Heroine có khối lượng 31,9957 gam từ địa bàn tỉnh Điện Biên về tỉnh Thái Bình, mục đích để được trả tiền công, đến khoảng 06 giờ 50 phút ngày 26/7/2020, Lò Văn V bị Tổ công tác Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang tại khu vực bến xe khách H, phường T, thành phố T1.

Tội Vận chuyển trái phép chất ma túy quy định tại Điều 250 Bộ luật hình sự:

“1. Người nào vận chuyển trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

b) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Hành vi của bị cáo Lò Văn V đã phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015 như Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo Lò Văn V phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của điều luật này.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, làm ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Mặc dù biết được tệ nạn ma tuý đang là hiểm hoạ của các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới; là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS. Hậu quả, tác hại do tệ nạn ma tuý gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến phát triển kinh tế - xã hội và an ninh trật tự của đất nước; phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh với tệ nạn ma tuý là trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội. Đảng và nhà nước ta đã có nhiều biện pháp để phòng chống tác hại của ma tuý và đặt ra chế tài xử lý nghiêm khắc đối với tội phạm về ma tuý nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo là người dân tộc Lào – là dân tộc thiểu số, trình độ văn hóa thấp nên cũng cần coi đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều Điều 51 Bộ luật Hình sự như ý kiến của người bào chữa cho bị cáo đã đề nghị là phù hợp.

[6] Căn cứ vào tính chất mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với bị cáo; xem xét lời bào chữa cho bị cáo của người bào chữa về việc đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo với mức hình phạt thật nghiêm khắc, cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian dài; như vậy mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo nói riêng đồng thời phục vụ tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, đặc biệt là tội phạm về ma tuý.

Về hình phạt bổ sung: xét thấy, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Xử lý vật chứng:

- Đối với 31,7418 gam ma túy loại Heroin (lượng nhỏ) được niêm phong trong 01 phong bì hoàn trả mẫu vật sau giám định số 5057/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an là vật nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự - Đối với 01 điện thoại Itell màu xanh đã cũ được niêm phong trong 01 phong bì mặt trước ghi điện thoại quản lý của Lò Văn V, sinh năm 1984, ĐKHKTT tại bản N, xã N1, huyện Đ, tỉnh Điện Biên ngày 26/7/2020 và các tài sản khác (gồm: 01 túi du lịch màu đỏ có mác Thủ đô vàng; 01 áo sơ mi màu xanh; 01 túi nilon màu đỏ có chữ Thái Dương hạnh phúc đến mọi nhà; 01 áo gió màu xanh;

01 quần vải màu xanh; 01 áo khoác màu đen có mác Dần Trường made in Việt Nam; 01 áo sơ mi màu trắng có kẻ sọc; 01 áo phông màu xanh tím than có kẻ sọc;

01 quần bò màu xanh) bị cáo không yêu cầu nhận lại tài sản do tài sản đều đã cũ, giá trị sử dụng không đáng kể nên cần tịch thu, tiêu hủy theo điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[8] Về án phí: Bị cáo Lò Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn V phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 250, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lò Văn V 15 (mười năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/7/2020.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 31,7418 gam ma túy loại Heroin (lượng nhỏ) được niêm phong trong 01 phong bì hoàn trả mẫu vật sau giám định số 5057/C09-TT2 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an và 01 điện thoại Itell màu xanh đã cũ được niêm phong trong 01 phong bì mặt trước ghi điện thoại quản lý của Lò Văn V, sinh năm 1984, ĐKHKTT tại bản N, xã N1, huyện Đ, tỉnh Điện Biên ngày 26/7/2020 và 01 túi du lịch màu đỏ có mác Thủ đô vàng; 01 áo sơ mi màu xanh; 01 túi nilon màu đỏ có chữ Thái Dương hạnh phúc đến mọi nhà; 01 áo gió màu xanh; 01 quần vải màu xanh; 01 áo khoác màu đen có mác Dần Trường made in Việt Nam; 01 áo sơ mi màu trắng có kẻ sọc; 01 áo phông màu xanh tím than có kẻ sọc; 01 quần bò màu xanh;

(Các vật chứng trên đang được quản lý tại Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Thái Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/11/2020 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình với Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Thái Bình).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ- UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Lò Văn V phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Lò Văn V có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy

Số hiệu:68/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về