TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 68/2020/HS-PT NGÀY 04/09/2020 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 04 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 113/2020/TLPT-HS, ngày 30 tháng 7 năm 2020, đối với bị cáo Phan Văn T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2020/HS-ST ngày 19/06/2020 của Tòa án nhân dân huyện VL, tỉnh Vĩnh Long.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Phan Văn T - sinh năm 1977 tại huyện VL, tỉnh Vĩnh Long; Nơi cư trú: ấp AL, xã TA, huyện VL, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T1, sinh năm 1953 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1954; vợ: Đỗ Thị Trúc E; tiền án: không; tiền sự: Ngày 28/11/2019, bị Công an xã TAxử phạt 1.500.000đ về hành vi đánh bạc, đã nộp phạt xong.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Văn T có 01 tiền sự về hành vi đánh bạc trái phép.
Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày 16/01/2020, Phan Văn T đang ở nhà thì có Trần Tấn T2, sinh năm 1992, HKTT: ấp AP, xã TA, huyện VL, tỉnh Vĩnh Long đến hỏi Th có gà cân nặng 2,5kg không để đá thắng thua bằng tiền với gà của T2. Lúc này có Trần Quang D, sinh năm 1999 gọi điện thoại cho Phan Văn B là em ruột của T, do B đang đi vệ sinh không đem theo điện thoại nên T bắt máy nghe, D hỏi có gà cân nặng 2,5kg và 2,6kg đá thắng thua bằng tiền trong sổ 600.000 đồng và xác gà 200.000 đồng chơi không? T giữ máy điện thoại quay sang hỏi T2 có đá không, T2 đồng ý. T trả lời với D có gà đá và kêu D đem gà qua sân có cây vú sữa rồi T kêu T2 về nhà bắt gà đem lại sân gà.
T vào nhà lấy cân đồng hồ loại 05kg và khoảng 10 cuộn băng keo dùng để trồng cựa gà mang đến khu đất vườn không người trông giữ của ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1952 thuộc ấp AH, xã TA, huyện VL, tỉnh Vĩnh Long để chuẩn bị tổ chức cho gà của T2 đá với gà của D. Vào đến sân gà, T nhìn thấy có Dương Thanh P, sinh năm 1989 ôm theo một con gà trống nòi có bộ lông màu đỏ - xám, D cùng với Lê Văn N, sinh năm 1982 mang theo hai con gà trống nòi đựng trong hai giỏ đệm, D hỏi T con gà nào đá trước, T nói con gà nhỏ đá trước, vì T2 chưa đem gà đến sân nên T cáp độ cho gà của N đá với gà của P. T kêu hai bên đem gà ra cân, gà của P cân nặng 2,6kg, gà của Nlà con gà có bộ lông màu đỏ - vàng cân nặng 2,5kg. Do trọng lượng hai con gà của hai bên chênh lệch không nhiều nên Tcáp độ cho hai bên đá ăn đồng, tiền thắng thua trong sổ là 600.000 đồng và xác gà 200.000 đồng, bên nào thắng sẽ đưa cho Tg tiền sâu 100.000 đồng, P và N đồng ý. T cung cấp băng keo cho hai bên chủ gà trồng cựa.
Bên gà của N do Nôm gà cho Dlấy cựa gà của D mang theo trồng cựa, Ntham gia đá tiền trong sổ 300.000 đồng và 200.000 đồng tiền xác gà, D theo con gà của N tham gia đá tiền trong sổ là 300.000 đồng. Sau khi băng cựa gà xong, Trần Quốc Đ, sinh năm 1981 là người nhử và thả gà.
Bên gà của Ph do Lê Văn T3, sinh năm 1981 ôm gà cho P lấy cựa gà do P mang theo ra trồng cựa, P tham gia đá tiền trong sổ là 600.000 đồng và 200.000 đồng tiền xác gà. Khi trồng cựa gà xong, P là người nhử và thả gà.
Sau khi hai bên trồng cựa gà xong đem gà ra nhử với nhau, T làm trọng tài đếm 1, 2, 3 để cho hai bên thả gà ra đá. Hai con gà đá với nhau được khoảng 02 phút chưa xác định thắng thua thì bị bắt quả tang.
Trong quá trình điều tra, T có tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Đối với các đối tượng: Dương Thanh P, Lê Văn T3, Lê Văn N và Trần Quang D có hành vi tham gia đá gà thắng thua bằng tiền nhưng số tiền tham gia không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, các đối tượng chưa có tiền án, tiền sự về hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Cơ quan CSĐT Công an huyện VL đã chuyển hồ sơ cùng đồ vật, tài liệu không liên quan đến Công an xã TA để giải quyết theo thẩm quyền là có cơ sở. Riêng Trần Quốc Đ, sau khi phát hiện có Công an đến đã bỏ chạy khỏi hiện trường, qua nhiều lần mời làm việc nhưng Đ không có mặt tại nơi cư trú, Cơ quan CSĐT Công an huyện VL sẽ tiếp tục xác minh điều tra xử lý sau.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 45/2020/HS-ST ngày 19/6/2020 của Tòa án nhân dân huyện VL, tỉnh Vĩnh Long, đã quyết định:
Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phan Văn T: 01 (Một) năm tù, về tội “Tổ chức đánh bạc”. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Phan Văn T. Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm tuyên về, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 02/7/2020, bị cáo Phan Văn T có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:
Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như án sơ thẩm đã xét xử. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo 09 tháng tù, sửa bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Th giữ nguyên yêu cầu kháng cáo là xin được giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin được giảm nhẹ hình phạt tù và cho bị cáo hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận án sơ thẩm xử phạt bị cáo là đúng hành vi của bị cáo đã thực hiện, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người làm chứng, vật chứng cùng các chứng cứ khác được thu thập thể hiện trong hồ sơ vụ án. Qua đó xác định ngày 16/01/2020 bị cáo thực hiện hành vi tổ chức đá gà ăn thua bằng tiền, hành vi đó của bị cáo án sơ thẩm xử phạt vị cáo về tội tổ chức đánh bạc theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo gây thiệt hại không lớn, tổ chức đơn giản, số tiền ăn thua 600.000 đồng, bị cáo thực hiện hành vi do Tài rũ bị cáo, bản thân bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo chưa đến mức phải cách ly khỏi xã hội, cần chuyển hình phạt chính khác cũng đảm bảo tính răn đe, giáo dục bị cáo, nên sửa một phần bản án sơ thẩm.
Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Văn T, sửa án sơ thẩm.
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Phan Văn T bằng hính thức phạt tiền 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) về tội “ tổ chức đánh bạc”.
2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo không phải chịu án phí án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 68/2020/HS-PT ngày 04/09/2020 về tội tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 68/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về