TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 68/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 251/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2020 về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1989; thường trú: Tổ 5, khu phố L, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn: Anh Đỗ Văn R, sinh năm 1988; thường trú: Tổ 5, khu phố L, phường K, thị xã T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 03-7-2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Q trình bày:
Chị Nguyễn Thị Q và anh Đỗ Văn R chung sống với nhau vào năm 2010, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên vào ngày 09-3-2011. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến đầu năm 2020, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Đỗ Văn R không lo làm ăn, có hành vi đáp đập chị Q. Khi xảy ra mâu thuẫn, chị Q đã nhiều lần khuyên bảo anh R tập trung làm ăn, lo cho gia đình, chăm sóc các con nhưng anh R vẫn không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau nữa. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân. Do vậy, chị Q khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh R.
Về con chung: Trong thời gian sống chung, chị Q và anh R có 02 người con chung tên Đỗ Phương Vy, sinh ngày 27-5-2011 và Đỗ Phi Hùng, sinh ngày 20-4-2018. Khi ly hôn, chị Q yêu cầu được nuôi 02 con chung, yêu cầu anh R cấp dưỡng nuôi mỗi con chung 2.000.000 đồng/tháng đến khi các con đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị Q vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc ly hôn, nuôi con chung nhưng không yêu cầu anh R phải cấp dưỡng nuôi con.
Chứng cứ do nguyên đơn giao nộp gồm bản sao chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu chị Nguyễn Thị Q, anh Đỗ Văn R, giấy khai sinh Đỗ Phương Vy và Đỗ Phi Hùng, bản sao Giấy chứng nhận kết hôn.
Bị đơn anh Đỗ Văn R vắng mặt, không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm tại phiên toà sơ thẩm như sau:
Về thu tuc tố tung: Quá trình tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Đỗ Văn R được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Đỗ Văn R.
[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q và anh Đỗ Văn R tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2011, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên vào ngày 09-3-2011, là hôn nhân hợp pháp.
[3] Về mâu thuẫn vợ chồng: Theo lời trình bày của chị Q thì trong thời gian chung sống giữa chị Q và anh R phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh R không lo làm ăn, có hành vi đánh đập chị Q. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án triệu tập anh R tham gia tố tụng nhưng anh R vắng mặt không có lý do, không có ý kiến trình bày trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Việc anh R vắng mặt không có lý do, là tự từ bỏ quyền, nghĩa vụ tham gia tố tụng, nghĩa vụ chứng minh của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ lời trình bày của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Q và anh R là thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chị Q yêu cầu được ly hôn với anh R là có căn cứ chấp nhận.
[4] Về con chung: Chị Q và anh R có 02 con chung tên Đỗ Phương Vy, sinh ngày 27-5-2011 và Đỗ Phi Hùng, sinh ngày 20-4-2018. Hiện nay 02 cháu đang sống chung với chị Q. Cháu Đỗ Phương Vy hiện nay đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng sống với mẹ. Còn cháu Đỗ Phi Hùng hiện chưa đủ 03 tuổi. Do vậy, Hội đồng xét xử giao 02 cháu Đỗ Phương Vy và Đỗ Phi Hùng cho chị Q nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Q không yêu cầu anh Đỗ Văn R phải cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận.
[7] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 56, 81, 82, 83, 84 và 85 của Luật Hôn nhân và Gia đình;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Q như sau:
- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q được ly hôn với anh Đỗ Văn R.
- Về con chung: Giao 02 con chung tên Đỗ Phương Vy, sinh ngày 27-5- 2011 và Đỗ Phi Hùng, sinh ngày 20-4-2018 cho chị Nguyễn Thị Q chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị Q không yêu cầu anh Đỗ Văn R phải cấp dưỡng nuôi con.
Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người được trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.
2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0038226 ngày 10-7-2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 68/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 68/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về