Bản án 68/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC – TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 68/2019/HS-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 51/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh Đ, sinh năm: 1995, tại: Kiên Lương, Kiên Giang; Nơi cư trú: tổ 1, ấp H L, xã H Đ, huyện K L, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Trường G và bà Trần Ngọc V; Bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 25/02/2019 (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ ngày 25/02/2019 Bùi Thanh Nh gọi điện thoại cho L (chưa xác định được nhân thân) bàn bạc mua ma túy để sử dụng, L đồng ý và gọi điện thoại cho Đ hỏi mua ma túy với giá 500.000đ. Đ đồng ý và gọi điện thoại cho một người tên L hỏi có ma túy không để Đ đem đi bán, nhưng L trả lời không có nên Đ gọi cho L thông báo hết ma túy. Tuy nhiên do cần ma túy để sử dụng nên khoảng 18 giờ cùng ngày N gọi điện thoại nhiều lần cho Đ hỏi mua ma túy, Đ gọi điện thoại cho L và L thông báo là đã có ma túy và kêu L đến lấy đi bán cho N. Điền điểu khiển xe mô tô hiệu Honda, loại Ablade màu đen, biển số 68 P1-482.84 xuống B X, thị trấn A Th, huyện P Q gặp L lấy bịch ma túy rồi điện thoại cho Nh hẹn giao ma túy tại quán cà phê M. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, Điền điều khiển xe mô tô biển số 68 P1-482.84 đến quán cà phê M thuộc ấp S L, xã D T, huyện P Q thấy N và L đang ngồi uống nước nên Đ đi đến lấy bịch ma túy đưa cho N, nhận ma túy xong N đưa cho Đ 500.000đ thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Còn L đã bỏ chạy Cơ quan cảnh sát Điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý sau.

*Vật chứng thu giữ: 01 bịch nylon màu trắng, được hàn kín, kích thước 01 cm x 2,4 cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng không đồng nhất; 01 điện thoại di dộng hiệu Viettel màu đen, viền bạc, model: V112, số IME1:865961018099280, Số IMEI 2: 865961018099298 không có ốp lưng đã qua sử dụng; tiền Việt Nam: 500.000đ; 01 xe mô tô hiệu Honda loại Alade màu đen, biển số 68P1-482.84, số máy JA36E0590588, số khung:36643GY108430 đã qua sử dụng.

*Tại bản Kết luận giám định về hóa chất số 149/KL-PY ngày 26/02/2019 của trung tâm pháp y sở y tế tỉnh Kiên Giang kết luận:

Mẫu các hạt tinh thể rắn, màu trắng, có tổng khối lượng là 0,0879 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định về hóa chất số 149/KL-PY ngày 26/02/2019 của trung tâm pháp y sở y tế tỉnh Kiên Giang.

Bản cáo trạng số 64/CT-VKSPQ ngày 31 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Đ về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Phần tranh luận, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Đ về tội “mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS; và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ từ 30 đến 36 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,4011 gam Mathamphetamine bao gồm bịch ny lon cộng mẫu; tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di dộng hiệu Viettel màu đen, viền bạc, model: V112, số IME1: 865961018099280, Số IMEI 2: 865961018099298 không có ốp lưng đã qua sử dụng và tiền Việt Nam: 500.000đ;

Đối với xe mô tô hiệu Honda loại Ablade màu đen, biển số 68P1-482.84, số máy JA36E0590588, số khung:36643GY108430 đã qua sử dụng đã trả cho anh Nguyễn Minh T, anh T không biết Đ dùng xe đi bán ma túy.

Đối với người tên L chưa xác định được nhân thân, khi nào làm rõ nhân thân, nơi cư trú sẽ xử lý sau. Đối với Bùi Thanh N đã có hành vi mua ma túy để sử dụng đã bị xử phạt vi phạm hành chính.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như cáo trạng viện kiểm sát truy tố và Lời nói sau cùng của bị cáo xin giảm mức hình phạt với mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đã tuân thủ nghiêm các quyền và nghĩa vụ của mình, thực hiện các hành vi, quyết định tố tụng đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ: vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 25/02/2019 tại quán cà phê M thuộc ấp S L, xã D T, huyện P Q Nguyễn Thanh Đ đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho Bùi Thanh N với giá tiền là 500.000đ thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

*Tại bản Kết luận giám định về hóa chất số 149/KL-PY ngày 26/02/2019 của trung tâm pháp y sở y tế tỉnh Kiên Giang kết luận:

Mẫu các hạt tinh thể rắn, màu trắng, có tổng khối lượng là 0,0879 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai trong giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Từ những căn cứ nêu trên HĐXX đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Thanh Đ đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức được mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm. Bị cáo biết đi bán ma túy cho L thì L sẽ cho ma túy bị cáo sử dụng và tiền tiêu xài, vì vậy để thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên bị cáo cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vào năm 2017 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” mới chấp hành xong hình phạt chưa được bao lâu nay lại thực hiện hành vi phạm tội mua bán trái phép chất ma túy.

Hành vi của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật, vi phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà Nước về ma túy và các chất gây nghiện, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục đối với bị cáo và cũng phòng ngừa chung cho xã hội đối với loại tội phạm này.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội lần này là tái phạm nên có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thật thà thai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,4011 gam Mathamphetamine bao gồm bịch ny lon cộng mẫu; tich thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di dộng hiệu Viettel màu đen, viền bạc, model: V112, số IME1:865961018099280, Số IMEI 2: 865961018099298 không có ốp lưng đã qua sử dụng và tiền Việt Nam: 500.000đ;

[6] Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thanh Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/02/2019

2.Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,4011 gam Mathamphetamine bao gồm bịch ny lon cộng mẫu; tich thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di dộng hiệu Viettel màu đen, viền bạc, model: V112, số IME1:865961018099280, Số IMEI 2: 865961018099298 không có ốp lưng đã qua sử dụng.

(Theo quyết định chuyển giao vật chứng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc số 39/QĐ-VKS-PQ ngày 31/5/2019)

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 500.000đ đang được giữ tại kho bạc Nhà nước huyện Phú Quốc.

3. Về án phí căn cứ Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2019/HS-ST ngày 27/06/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:68/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về