TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 68/2019/HS-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM
Ngày 26 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 68/2019/TLST-HS, ngày 22 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:
Vũ Văn D, sinh ngày 10 tháng 8 năm 1989, tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn V, xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn C và bà Trần Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính và chưa bị xử lý kỷ luật; bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cao Lộc từ ngày 13/5/2019 đến nay; có mặt.
- Người chứng kiến: Ông Hà Minh H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 03 giờ 45 phút ngày 13/5/2019, tổ công tác Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại đường quốc lộ 1B, thuộc địa phận thôn C, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn phát hiện xe ô tô taxi, biển kiểm soát: 30E-18xxx đang di chuyển theo hướng thị trấn Đ - Th N, có biểu hiện nghi vấn vận chuyển hàng cấm, tổ công tác yêu cầu dừng xe và tiến hành kiểm tra. Lái xe khai nhận tên là Vũ Văn D, sinh ngày 10/8/1989, hộ khẩu thường trú tại Thôn V, xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Qua kiểm tra phát hiện trong cốp xe có 02 thùng cát tông, bên trong chứa pháo, Vũ Văn D khai nhận đây là 02 thùng pháo Vũ Văn D chở thuê cho một người đàn ông tên là Th, người tỉnh Vĩnh Phúc, tổ công tác đưa Vũ Văn D cùng tang vật và phương tiện về trụ sở Công an huyện Cao Lộc để làm rõ.
Vật chứng thu giữ: 12 (mười hai) giàn pháo loại 36 lỗ/giàn; 431 (bốn trăm ba mươi mốt) quả pháo có hình quả lựu đạn; 01 (một) xe ô tô, nhãn hiệu HUYNDAI, màu bạc, biển kiểm soát: 30E-18xxx, xe cũ đã qua sử dụng; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số KC 8525204 của phương tiện có biển đăng ký 30E-18xxx; 01 (một) bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tô số 275636 của xe 30E-18xxx; 01 (một) điện thoại di động màu xanh, mặt sau có chữ SAMSUNG, số kiểu máy SM-A750GN/DS, số IMEI (khe 1) 353465101197398, số IMEI (khe 2): 353466101197396; 01 (một) giấy phép lái xe số 9901860056xx, mang tên Vũ Văn D do Tổng cục đường bộ Việt Nam cấp ngày 04/9/2018.
Tại Biên bản xác định trọng lượng ngày 13/5/2019, xác định toàn bộ số pháo thu giữ Vũ Văn D có tổng trọng lượng 33kg (ba mươi ba ki lô gam).
Kết luận giám định số 112/KL-PC09 ngày 15/5/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn: Mẫu vật gửi giám định đều có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây ra tiếng nổ.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo Vũ Văn D khai nhận: Vũ Văn D làm nghề lái xe taxi cho Công ty trách nhiệm hữu hạn T H tại khu vực huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, tại đây Vũ Văn D có quen một người đàn ông tên Th người tỉnh Vĩnh Phúc (Vũ Văn D chỉ biết tên, không biết tuổi và địa chỉ cụ thể). Ngày 12/5/2019, khi Vũ Văn D đang ở khu vực huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc thì nhận được điện thoại của Th đặt vấn đề thuê Vũ Văn D lên tỉnh Lạng Sơn chở pháo về tỉnh Vĩnh Phúc cho Th, tiền công là 3.000.000 đồng (ba triệu đồng), Vũ Văn D đồng ý. Khoảng 15 giờ cùng ngày Vũ Văn D đón Th tại vòng xuyến khu vực huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc đi lên tỉnh Lạng Sơn, khi đi đến tỉnh Lạng Sơn khoảng 19 giờ cùng ngày, Th bảo Vũ Văn D đỗ xe đợi ở cây xăng (Vũ Văn D không rõ địa chỉ cụ thể). Khoảng 03 giờ ngày 13/5/2019 Th quay lại bảo Vũ Văn D đi đến địa điểm để lấy 02 thùng cát tông pháo lên xe của Vũ Văn D (Vũ Văn D không biết địa chỉ cụ thể), rồi Th đi lên một chiếc xe ô tô taxi khác và đi trước để xem đường, còn Vũ Văn D đi một mình điều khiển xe chở pháo đi sau, khi đang trên đường vận chuyển pháo đến địa phận thôn C, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn thì bị tổ công tác Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.
Các tình tiết khác trong vụ án: Trong quá trình điều tra Vũ Văn D khai trước đó đêm 10/5/2019, Vũ Văn D được chở 02 thùng bìa cát tông đựng pháo từ tỉnh Lạng Sơn về tỉnh Vĩnh Phúc cho Th với tiền công vận chuyển là 3.000.000 đồng, Th đã trả trước cho D 2.000.000 đồng, còn 1.000.000 đồng Th trả sau, do lần này không thu được vật chứng nên không có căn cứ để xử lý theo quy định.
Đối với người đàn ông tên là Th thuê Vũ Văn D vận chuyển pháo nổ từ tỉnh Lạng Sơn về tỉnh Vĩnh Phúc, do không biết họ và tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ.
Đối với xe ô tô taxi chở đối tượng Th dẫn đường để Vũ Văn D vận chuyển pháo, do Vũ Văn D không biết đặc điểm của xe và biển kiểm soát vì vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc không đủ cơ sở để xác minh làm rõ.
Chiếc xe ô tô taxi biển kiểm soát 30E-18xxx; 01 giấy chứng nhận kiểm định số KC 8525204; 01 bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tô biển kiểm soát 30E – 18xxx, ngày 24/5/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cao Lộc đã trả cho chủ sở hữu là Công ty trách nhiệm hữu hạn T H, địa chỉ: Xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đối với số vật chứng là pháo sau khi giám định và 02 thùng bìa cát tông dùng để đựng pháo đã được tiêu hủy theo quy định pháp luật.
Các vật chứng khác được chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKS ngày 22 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc đã truy tố bị cáo Vũ Văn D về tội Vận chuyển hàng cấm theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật Hình sự
- Tuyên bố bị cáo Vũ Văn D phạm tội Vận chuyển hàng cấm và xử phạt bị cáo Vũ Văn D từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 02 năm đến 03 năm.
Áp dụng khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự
- Trả tự do cho bị cáo Vũ Văn D tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội khác.
Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng vì bị cáo Vũ Văn D nghề nghiệp không ổn định, không có tài sản.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự - Tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu xanh, mặt sau có chữ SAMSUNG, số kiểu máy SM-A750GN/DS, số IMEI (khe 1) 353465101197398, số IMEI (khe 2): 353466101197396.
- Trả lại cho bị cáo Vũ Văn D 01 (một) giấy phép lái xe số 9901860056xx, mang tên Vũ Văn D do Tổng cục đường bộ Việt Nam cấp ngày 04/9/2018.
- Xác nhận cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc đã trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn T H, địa chỉ: Xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc 01 (một) xe ô tô taxi biển kiểm soát 30E - 18xxx; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số KC 8525204; 01 (một) bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tổ biển kiểm soát 30E – 18xxx.
Bị cáo Vũ Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo có ý kiến tranh luận: Không nhất trí tịch thu chiếc điện thoại di động hiệu SamSung.
Ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát: Chiếc điện thoại di động hiệu SamSung màu xanh của bị cáo Vũ Văn D, bị cáo đã dùng để liên lạc với người đàn ông tên Th để vận chuyển pháo, xác định là công cụ phương tiện phạm tội, nên Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm là tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước.
Tại lời nói sau cùng bị cáo hối hận về hành vi của bản thân và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo phù hợp với các chứng cứ khác và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Văn D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 03 giờ 45 phút, ngày 13/5/2019, tổ công tác Công an huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn làm nhiệm vụ tại đường quốc lộ 1B, thuộc địa phận thôn C, xã H, huyện C, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Vũ Văn D có hành vi vận chuyển hàng cấm (pháo nổ) gồm: 12 (mười hai) giàn pháo loại 36 lỗ/giàn; 431 (bốn trăm ba mươi mốt) quả pháo có hình quả lựu đạn, có tổng trọng lượng 33 kg (ba mươi ba) pháo thành phẩm. Kết luận giám định số pháo trên có chứa thuốc pháo, khi đốt đều gây ra tiếng nổ. Hành vi của bị cáo Vũ Văn D đã cấu tội Vận chuyển hàng cấm, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Vũ Văn D tội Vận chuyển hàng cấm theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng, khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, có đủ khả năng để nhận thức việc vận chuyển hàng cấm là trái với quy định của pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý một số hàng hóa của nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự quản lý kinh tế và an toàn xã hội, nên cần phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo gây ra.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, nên xác định có nhân thân tốt.
[7] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân tốt, có nơi thường trú ổn định rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cuộc sống xã hội mà chỉ cần để bị cáo cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Căn cứ vào khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự trả tự do cho bị cáo Vũ Văn D tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội khác.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh ngày 11/6/2019 xét thấy bị cáo Vũ Văn D không có tài sản, nghề nghiệp lái xe tắc xi chỉ đủ nuôi bản thân, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật Hình sự.
[9] Đối với người đàn ông tên là Th thuê bị cáo Vũ Văn D vận chuyển pháo nổ từ tỉnh Lạng Sơn về tỉnh Vĩnh Phúc, do không biết họ và tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra, xác minh làm rõ là có căn cứ.
[10] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Xét thấy 01 (một) điện thoại di động màu xanh, mặt sau có chữ SAMSUNG, số kiểu máy SM-A750GN/DS, số IMEI (khe 1) 353465101197398, số IMEI (khe 2): 353466101197396 bị cáo dùng liên lạc để vận chuyển pháo, nên cần tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước.
[11] Đối với 01 (một) giấy phép lái xe số 9901860056xx, mang tên Vũ Văn D do Tổng cục đường bộ Việt Nam cấp ngày 04/9/2018, là giấy tờ của bị cáo không liên quan đến vụ án, nên cần trả lại cho bị cáo.
[12] Còn 01 (một) xe ô tô taxi biển kiểm soát 30E-18xxx; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số KC 8525204; 01 (một) bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tổ biển kiểm soát 30E-18xxx cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc đã trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn T H, địa chỉ: Xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, Hội đồng xét xử chỉ cần xác nhận.
[13] Về án phí: Bị cáo Vũ Văn D bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
[14] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 và khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự; khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;
Căn cứ Điều 331; 332; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn D phạm tội Vận chuyển hàng cấm.
2. Về hình phạt:
- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Vũ Văn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 03 (ba) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 26/8/2019. Giao bị cáo Vũ Văn D cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện S, tỉnh Tuyên Quang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trả tự do cho bị cáo Vũ Văn D tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội khác.
- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu xanh, mặt sau có chữ SAMSUNG, số kiểu máy SM-A750GN/DS, số IMEI (khe 1) 353465101197398, số IMEI (khe 2): 353466101197396 của bị cáo Vũ Văn D.
- Trả lại cho bị cáo Vũ Văn D 01 (một) giấy phép lái xe số 9901860056xx, mang tên Vũ Văn D do Tổng cục đường bộ Việt Nam cấp ngày 04/9/2018.
(Hiện các vật chứng đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lộc theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/7/2019).
- Xác nhận cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lộc đã trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn T H, địa chỉ: Xã Q, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc 01 (một) xe ô tô taxi biển kiểm soát 30E-18xxx; 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số KC 8525204; 01 (một) bản sao chứng nhận đăng ký xe ô tổ biển kiểm soát 30E-18xxx.
4. Về án phí: Bị cáo Vũ Văn D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 68/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội vận chuyển hàng cấm
Số hiệu: | 68/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về