Bản án 68/2019/HS-ST ngày 01/07/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 68/2019/HS-ST NGÀY 01/07/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 74/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Ngô Văn A (tên gọi khác: không), sinh năm 1982 tại Hà Nội; nơi cư trú ấp 02, xã TT, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Xây dựng; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Ngô Văn G, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1955; bị cáo có vợ là chị Nguyễn Thị Thanh I, sinh năm 1989 và 03 người con, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo được tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Điểu Lê B, sinh năm 1994; nơi cư trú thôn PT, xã PR, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước (có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Cao Thị Bích C, sinh năm 1982; nơi cư trú khu phố TB, phường TB, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước (vắng mặt không có lý do).

Ông Điểu D, sinh năm 1977; nơi cư trú thôn PT, xã PR, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. (vắng mặt không có lý do).

Người làm chứng: Anh Hồ Ngọc E, sinh năm 1981; nơi cư trú khu phố TB, phường TB, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước. (vắng mặt không có lý do)

Anh Nguyễn Văn F (tên gọi khác: Tèo), sinh năm 1988; nơi cư trú thôn PT, xã PR, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước. (vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 8 năm 2018 Điểu Lê B đến làm phụ hồ cho Ngô Văn A, sáng ngày 26 tháng 9 năm 2018 B không có tiền đổ xăng xe nên hỏi xin A 20.000 đồng để đổ xăng xe mô tô biển số 93P1-153.75, lúc này A nói với B đưa xe cho A để đi đổ xăng xong rồi A sẽ trả xe ngay, B đồng ý rồi giao xe cho A. Do cần tiền nên A đã tự ý nảy sinh cầm cố chiếc xe của B để lấy tiền trả nợ. A đem xe của B và 01 chiếc ti vi hiệu ASANZO của mình đến tiệm cầm đồ "Kim C" do chị Cao Thị Bích C làm chủ, trú tại khu phố TB, phường TB, thành phố Đồng Xoài cầm cố được 13.000.000 đồng, trong đó ti vi cầm được 7.000.000 đồng, còn xe mô tô cầm được 6.000.000 đồng để lấy tiền trả nợ. Đến chiều cùng ngày khi B hỏi lấy xe lại thì A nói dối với B là xe bị Cảnh sát giao thông tỉnh Bình Phước bắt và hẹn 10 ngày sau mới trả xe. Do không có tiền chuộc xe nên A chưa trả xe lại cho B. Sau đó B làm đơn tố cáo Ngô Văn A đến Cơ quan Công an.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 09/KLĐG ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự của thành phố Đồng Xoài kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Luvias biển số: 93P1-153.75 (hiện chưa thu hồi được) có trị giá 7.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 76/CT-VKS-ĐX ngày 06 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài truy tố bị cáo Ngô Văn A về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Văn A mức án từ 06-09 tháng tù, cho hưởng án treo.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại đã nhận số tiền là 7.000.000 đồng tương ứng với giá trị tài sản chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo Ngô Văn A tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng số 76/CT-VKS-ĐX ngày 06 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước.

[2.1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với kết luận điều tra; biên bản định giá tài sản, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Thấy, phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm và phương thức thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

2.2] Vào ngày 26 tháng 9 năm 2018 sau khi nhận đổ xăng cho chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Luvias biển số 93P1-153.75 cho anh Điểu Lê B, bị cáo Ngô Văn A đã nảy sinh ý định chiếm đoạt nhằm cầm cố chiếc xe của anh B và 01 chiếc ti vi hiệu ASANZO của bị cáo tại tiệm cầm đồ "Kim C" do chị Cao Thị Bích C làm chủ, trú tại khu phố TB, phường TB, thành phố Đồng Xoài để lấy số tiền 13.000.000 đồng nhằm mục đích trả nợ.

[2.3] Hành vi của bị cáo lợi dụng sự tin tưởng của chủ sở hữu là anh Điểu Lê B trong việc giao tài sản, sau đó nảy sinh ý định chiếm đoạt 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Luvias biển số: 93P1- 153.75 để cầm cố lấy tiền trả nợ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Do tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị 7.500.000 đồng nên Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đồng Xoài truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.4] Bị cáo là người đã thành niên, khi phạm tội bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc lợi dụng sự tin tưởng của chủ sở hữu trong việc giao tài sản để chiếm đoạt là hành vi phạm tội. Nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân mà bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người bị hại, là khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[2.5] Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã bồi thường khắc phục thiệt hại cho người bị hại, người bị hại cũng có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cần được xem xét trong việc lượng hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Do người bị hại anh Điểu Lê B đã nhận số tiền là 7.000.000 đồng, tương ứng với giá trị tài sản chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về vật chứng vụ án: Chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Luvias biển số 93P1-153.75 đã qua sử dụng, hiện nay không thu hồi được nên không có cơ sở để xử lý.

[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngô Văn A (tên gọi khác: không) phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2017.

Xử phạt bị cáo Ngô Văn A 06 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tuyên giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã TT, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

3. Về trách nhiệm dân sự: Do các bên không ai có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về Vật chứng vụ án: Không xem xét

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2019/HS-ST ngày 01/07/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:68/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về