Bản án 68/2019/HNGĐ-ST ngày 05/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 68/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 226/2019/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 8 năm 2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo 69/2019/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đinh Thị B, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Thôn VX, xã ĐP, huyện T1, Thái Bình (vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Đặng Văn P, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Thôn VX, xã ĐP, huyện T1, Thái Bình (vắng mặt lần thứ hai không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Đinh Thị B trình bày:

Chị và anh Đặng Văn P tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau vào ngày 22/11/2002 được Uỷ ban nhân dân xã ĐP, huyện T1, tỉnh Thái Bình chứng nhận kết hôn. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ nhau. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2015. Nay xác định tình cảm không còn, không thể quay về chung sống và đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P. Về con chung, chị và anh P có 01 con chung là Đặng QA, sinh ngày 27/7/2003, hiện tại con Đặng QA đang ở với gia đình nhà nội tại thôn VX, xã ĐP, huyện T1. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con QA và không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị (cháu QA có nguyện vọng được ở với mẹ).

Về tài sản chung, chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã gửi cho anh Đặng Văn P thông báo thụ lý, thông báo đến phiên công khai chứng cứ và hòa giải tuy nhiên anh P không đến Tòa án.

Tại biên bản làm việc ngày 01/10/2019, tại gia đình anh Đặng Văn P, sinh năm 1979, địa chỉ tại thôn VX, xã ĐP, huyện T1, tỉnh Thái Bình. Ông Đặng Hồng P1, sinh năm 1948, là bố đẻ của anh P trình bày:

Ông là Đặng Hồng P1, là bố đẻ anh Đặng Văn P. Anh P và chị B có tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn năm 2002 tại UBND xã ĐP. Về mâu thuẫn vợ chồng anh P và chị B ông không nắm được. Vợ chồng anh P và chị B có 01 con chung là Đặng QA, sinh ngày 27/7/2003. Gia đình ông có nhận được văn bản và giấy triệu tập của Tòa án gửi cho anh P, đã báo cho anh P biết về việc chị B xin ly hôn. Tuy nhiên, do đi làm ăn xa nên anh P không đến Tòa án để làm việc được. Qua gia đình, anh P có quan điểm đồng ý ly hôn với chị B vì tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng sống ly thân đã lâu. Gia đình ông đã khuyên giải anh chị nhiều lần nhưng hai anh chị không hòa giải được. Về việc nuôi con thì theo quan điểm của cháu QA. Về tài sản chung, theo ông vợ chồng anh P, chị B không có tài sản gì. Qua gia đình, anh P đồng ý ly hôn, tuy nhiên vì đi làm ăn không về Tòa án giải quyết được, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Biên bản làm việc có chữ ký của ông P1 và xác nhận của Chủ tịch UBND xã ĐP, huyện T1, tỉnh Thái Bình.

Ngày 22/10/2019, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án ly hôn giữa chị B và anh P. Chị B đến phiên tòa, anh P vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa, phiên tòa được mở lại vào ngày 05/11/2019.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện T1, tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị Đinh Thị B được ly hôn anh Đặng Văn P. Về con chung, giao con chung Đặng QA, sinh ngày 27/7/2003 cho chị B được trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với Đặng Văn P; anh P có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu. Về tài sản chung, do đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả giải quyết tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Đinh Thị B vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn là anh Đặng Văn P vắng mặt lần thứ hai không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị B và anh P.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Đinh Thị B và anh Đặng Văn P kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ yêu cầu giải quyết ly hôn của chị B cung cấp phù hợp với các tài liệu chứng cứ Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nên xác định: Trong quá trình chung sống sau khi kết hôn vợ chồng anh chị thường xảy ra mâu thuẫn, cãi cọ nhau. Nguyên nhân do tính tình không hợp, vợ chồng không hiểu và thông cảm cho nhau, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2015. Chị B đã về nhà ngoại sinh sống. Chị B có đơn xin ly hôn anh P, qua gia đình, anh P có quan điểm đồng ý ly hôn với chị B vì tính tình vợ chồng không hợp, vợ chồng sống ly thân đã lâu. Như vậy, có thể thấy tình cảm vợ chồng của chị B và anh P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xử cho chị Đinh Thị B được ly hôn anh Đặng Văn P.

[3] Về con chung: Chị B và anh P có 01 con chung là Đặng QA, sinh ngày 27/7/2003. Chị B đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con QA và không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con cùng chị (cháu QA có nguyện vọng được ở với mẹ) nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cho chị B được trực tiếp nuôi dưỡng con Đặng QA là phù hợp với quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Đặng Văn P. Anh P có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

[4] Về tài sản chung: Do các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Đinh Thị B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: 

Xử cho chị Đinh Thị B được ly hôn anh Đặng Văn P.

2. Về con chung: Giao con chung Đặng QA, sinh ngày 27/7/2003 cho chị B được trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Đặng Văn P. Anh P có quyền đi lại thăm nom chăm sóc con chung không ai được cản trở, việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung được đặt ra giải quyết khi các bên đương sự có yêu cầu.

3. Về tài sản chung:

Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí:

Nguyên đơn là chị Đinh Thị B phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, khấu trừ số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí chị B đã nộp theo Biên lai số 0009246 ngày 29/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T1, tỉnh Thái Bình. Chị Đinh Thị B đã nộp đủ án phí.

5. Quyền kháng cáo:

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2019/HNGĐ-ST ngày 05/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:68/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về