TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 68/2018/HS-PT NGÀY 26/04/2018 VÈ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 26/4/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 50/2018/HSPT ngày 12/3/2018 đối với các bị cáo Hoàng Thắng L, Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
-Bị cáo có kháng cáo:
1. Hoàng Thắng L (L Rồng Xanh), sinh ngày 10 tháng 10 năm 1979 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKHKTT: Tổ X, phường H, quận N; Nơi cư trú: 137 N, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Bá C và bà Trần Thị Minh T, bị cáo có vợ là Ngô Thị Mỹ N và 01 con sinh năm 2010;
Tiền án: Ngày 02/11/2010, bị TAND quận Ngũ Hành Sơn xử phạt 5 tháng tù tội “Cưỡng đoạt tài sản”; chưa chấp hành nghĩa vụ dân sự; ngày 30/12/2010 bị TAND quận Hải Châu xử phạt 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/10/2015.
Tiền sự: Vào tháng 10/2015 bị Tòa án nhân dân quận Hải Châu áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc .
Nhân thân:
- Năm 1997 bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/12/2017. Có mặt.
2. Ngô Văn D (D Kẹo), sinh ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ xx, phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Văn S (c) và bà Kiều Thị T (s), gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án: Không; Tiền sự: tháng 9/2017 đi cai nghiện tại cơ sở Bầu Bàng, TP Đà Nẵng.
Bị cáo hiện đang tập trung cai nghiện tại cơ sở Bầu Bàng. Có mặt.
3. Nguyễn Thanh T, sinh ngày 31 tháng 12 năm 1988 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi ĐKHKTT: Tổ xx, phường A, quận S, TP. Đà Nẵng; Nơi cư trú: Phòng xxx, chung cư C, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông (chưa xác định) và bà Nguyễn Thị H (s); có vợ là Nguyễn Thị Thúy L và 03 con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2010 bị TAND quận Hải Châu xử phạt 36 tháng tù tội “Cướp giật tài sản” (Đã xóa án tích).
Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vì mâu thuẫn với ông Nguyễn T nên khoảng 15 giờ ngày 15/8/2017, Hoàng Thắng L đã điện thoại nhờ Phạm Ngọc H đập phá xe ô tô của ông T đang để tại số nhà 56 Nguyễn Duy T thuộc phường H, quận N, thành phố Đà Nẵng. Phạm Ngọc H điện thoại rủ Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T cùng với H, Q, C (chưa rõ địa chỉ) cùng nhau đến nhà ông T. Đến nơi, cả nhóm đứng chờ, H trực tiếp cầm tuýp sắt ba đoạn đâp vào kính chắn gió phía sau của xe ô tô BKS 43A-005.xx. Tổng thiệt hại 5.800.000đồng.
Tại bản án sơ thẩm số 03/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã quyết định các bị cáo Hoàng Thắng L, Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm s, b, i khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52 của BLHS 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội
Xử phạt: bị cáo Hoàng Thắng L 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/12/2017.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm s, b khoản 1 Điều 51; Điều 58 của BLHS 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.
Xử phạt: bị cáo Ngô Văn D 09 (Chín) tháng tù .Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 178; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của BLHS 2015, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội.
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thanh T 09 (Chín) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý tang vật, án phí và thông báo quyền kháng cáo bản án.
Ngày 10, 12, 13/02/2018, các bị cáo Hoàng Thắng L, Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T có đơn kháng cáo với nội dung: xin cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về phần thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Hoàng Thắng L, Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Hoàng Thắng L tự nguyện rút đơn kháng cáo nên đề nghị HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo L.
Về nội dung đơn kháng cáo thì thấy: các bị cáo Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T có hành vi cố ý đập phá làm hư hỏng tài sản của người khác nên Bản án sơ thẩm số 03/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 BLHS 2015 là có căn cứ, đúng tội. Bản án sơ thẩm cũng đã xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, vai trò và nhân thân của bị cáo, áp dụng các tình tiết tăng nặng tại điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, b, i khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt các bị cáo Ngô Văn D 09(Chín) tháng tù, Nguyễn Thanh T 09(Chín) tháng tù là phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Thắng L tự nguyện rút đơn kháng cáo. HĐXX đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo L. Còn lại các bị cáo Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T đã thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xét xử các bị cáo về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 BLHS 2015 là đúng. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt. Lời khai của các bị cáo Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: khoảng 15 giờ ngày 05/8/2017 Hoàng Thắng L nhờ Phạm Ngọc H đập phá xe ô tô của ông T; H cùng với Ngô Văn D và Nguyễn Thanh T cùng đồng bọn chở nhau đến nhà ông T; Đến nơi, cả nhóm dừng lại, H dùng cây tuýp 3 đoạn bằng kim loại đập phá làm hư hỏng kính sau xe ô tô BKS 43A-005.xx của ông Nguyễn T gây thiệt hại 5.800.000đồng; Bản án sơ thẩm số 03/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng xét xử các bị cáo về tội cố ý làm hư hỏng tài sản là có căn cứ, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của các bị cáo Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T, Hội đồng xét xử xét thấy: Các bị cáo là những thanh niên tuổi đời còn trẻ nhưng không chịu lo học tập, lao động, rèn luyện, tu dưỡng mà đã có hành vi hung hãn, xem thường pháp luật và tài sản của người khác, đã kết thành băng, nhóm chơi bời lêu lổng rồi gây án. Bản thân của các bị cáo có nhân thân xấu; Bị cáo D có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý đã bị Toà án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng 2 lần ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Bị cáo T trước đây đã bị Toà án nhân dân quận Hải Châu xử phạt 3 năm tù về tội cướp giật tài sản. Các bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà vẫn tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, ảnh hưởng trật tự trị an trên địa bàn thành phố, xâm hại an toàn, trật tự công cộng được pháp luật bảo vệ. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, vai trò, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo đồng thời áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên xét thấy cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Ngô Văn D 09 (Chín) tháng tù, Nguyễn Thanh T 09 (Chín) tháng tù là phù hợp nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn D,
Nguyễn Thanh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm như ý kiến đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/ Căn cứ vào: Điểm a, đ khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự
Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với bị cáo Hoàng Thắng L. Bản án HSST số 03/2018/HSST ngày 06/02/2018 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Hoàng Thắng L kể từ ngày tuyên án phúc thẩm, ngày 26/4/2018. Bị cáo Hoàng Thắng L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Tuyên bố: Các bị cáo Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”;
- Căn cứ vào Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Khoản 3, điều 7; Khoản 1 Điều 178; điểm s, b khoản 1 Điều 51; Điều 58 của BLHS 2015.
Xử phạt: bị cáo Ngô Văn D 09(Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
- Căn cứ vào Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Khoản 3, điều 7; Khoản 1 Điều 178; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của BLHS 2015,
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thanh T 09(Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
3. Về án phí: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Ngô Văn D, Nguyễn Thanh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 68/2018/HS-PT ngày 26/04/2018 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 68/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về