TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 68/2018/HSPT NGÀY 21/11/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 21 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 96/2018/HSPT ngày 30 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo Lê Văn M và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 61/2018/HSST ngày 24/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Bị cáo Lê Văn M, sinh năm 1971 tại huyện T T, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: thôn D , xã T D, huyện T T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn L (đã chết) và bà Vũ Thị Đ; có vợ là Hoàng Thị Th; có 03 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2000. Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 22/03/2013, bị Công an tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc” với hình thức phạt tiền 2.000.000 đồng, đã thi hành xong ngày 01/4/2013. Bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (có măt)
2. Bị cáo Vũ Quang H, sinh năm 1972 tại huyện T T, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: thôn Đ, xã T D, huyện T T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Quang Ch và bà Bùi Thị H; có vợ là Hoàng Thị Th; có 04 con,con lớn sinh năm 1996, con nhỏ sinh năm 2013. Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: có thời gian tham gia nghia vu quân sư tư thang 9/1991 đến tháng 8/1993. Bị tạm giữ từ ngày 09/3/2018 đến ngày 12/3/2018, được thay thế biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (có mặt)
3. Bị cáo Tạ Đồng Sơn T1, sinh năm 1991 tại huyện T T, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: thôn Th, xã T Tr, huyện T T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Đồng Ph và bà Nguyễn Thị S. Tiền án, tiền sự: không. Bị tạm giữ từ ngày 06/3/2018 đến ngày 12/3/2018, được thay thế biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (có mặt)
4. Bị cáo Nguyễn Tiến T2, sinh năm 1969 tại huyện T T, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: thôn P, xã T D, huyện T T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 03/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến L và bà Vũ Thị B (đều đã chết); có vợ là Vũ Thị T (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2007. Tiền án, tiền sự: không. Bị tạm giữ từ ngày 06/3/2018 đến ngày 12/3/2018, được thay thế B biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (có mặt)
5. Bị cáo Nguyễn Mạnh B, sinh năm 1984 tại huyện T T, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: thôn Đ, xã T D, huyện T T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ph và bà Vũ Thị Ch; có vợ là Nguyễn Thị Ngọc Th, có 01 con sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: không. Bị tạm giữ từ ngày 06/3/2018 đến ngày 12/3/2018, được thay thế biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (có mặt)
6. Bị cáo Đinh Văn T3, sinh năm 1993 tại huyện T T, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: thôn V, xã T H, huyện T T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn Đ và bà Lê Thị Th; có vợ là Bùi Thị L. Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 22/3/2013, bị Công an tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc” vơi hinh thưc phat tiên 2.000.000 đông, đa thi hanh xong ngay 01/4/2013. Bị tạm giữ từ ngày 06/3/2018 đến ngày 12/3/2018, được thay thế biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (có mặt)
7. Bị cáo Vũ Văn Kh, sinh năm 1990 tại huyện T T, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: thôn Đ , xã T D, huyện T T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp : lao động tự do ; trình độ học vấn : lớp 09/12; dân tộc : Kinh; giới tính : nam; tôn giáo : không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Ph va ba Lê Thị H ; có vợ là Phạm Thị T; có 01 con sinh năm 2014. Tiền sự: Ngày 29/9/2017, bị Công an huyện xử phạt hành chính về hành vi xâm hai sưc khoe ngươi khac . Tiền án: không. Nhân thân: có thời gian t ham gia nghia vu quân sư tư thang 3/2010 đến tháng 8/2011. Bị tạm giữ từ ngày 06/3/2018 đến ngày 12/3/2018, được thay thế B biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (có mặt)
- Bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo kháng nghị:
Bị cáo Tạ Đồng Q, sinh năm 1975 tại huyện T T, tỉnh Thái Bình.
Nơi cư trú: thôn Th, xã T Tr, huyện T T, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tạ Đồng C (đa chêt) và bà Nguyễn Thị H ; có vơ la Nguyên Thi H ; có 02 con, con lơn sinh n ăm 1999, con nho sinh năm 2015. Tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự từ năm 1994 đến năm 1997. Bị tạm giữ từ ngày 06/3/2018 đến ngày 12/3/2018, được thay thế biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. (Hiên đang châp hành hình phạt tù tại Trại giam Ninh Khanh).
Ngoài ra còn có 02 bị cáo là Vũ Phú Q1 và Hoàng Văn Q2 không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Hện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Buôi chiêu n gày 05/3/2018, ở gần nhà Vũ Quang H ở thôn Đông Dương , xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái có đám ma, nên có một số người (H không biêt tên va đia chi) tụ tập tại phòng thờ tầng hai nhà H để đánh bạc. Đên khoảng 17 giờ 50 phút cùng, Nguyên Tiên T2 đi sưa xe ơ gân nhà H và vào trong nhà H chơi, khi lên tầng hai thấy có khoảng 5 đến 6 người (Tân không biêt tên , đia chi ) đang đánh bạc B hình thức xóc đĩa ăn tiên. T2 ngồi xem rồi sau đó đã tham gia đánh bạc. Đên khoang 18 giờ, Nguyên Manh B, Vũ Phú Q1 đến và cũng tham gia đánh bạc. Đên khoang 19 giờ, Lê Văn M đến, tham gia đánh bạc và là người cầm cái xóc đĩa cho moi ngươi chơi. Dụng cụ đánh bạc gồm: 01 bát, 01 đĩa B sứ, 04 Q1 vị hình tròn B nhau, có hai mặt khác màu. Những người tham gia đánh bạc gồm: 01 người cầm cái và những người chơi bạc việc phân định thắng thua B cách xác định "chẵn", "lẻ". Phương thức đánh bạc là ngươi câm cai cho 4 Q1 vị vào đĩa, dùng bát úp kín rồi xóc lên, xóc xuống nhiều lần rồi đặt xuống chiếu. Nhưng ngươi chơi bạc đặt tiền vào “cửa chẵn” hoặc “cửa lẻ” tùy ý, số tiền thắng thua của từng người B đúng số tiền đã đặt cược. Mức đặt cược của mỗi người một ván thấp nhất là 50.000 đồng, không giới hạn mức cao nhất. Người cầm cái có nhiệm vụ thu tiền của cửa thua trả cho cửa thắng. Khi trả tiền mà còn thừa thì người cầm cái sẽ được hưởng, còn nếu thiếu tiền thì người cầm cái phải bù vào.
Sau đó, lần lượt Tạ Đồng Sơn T1, Tạ Đồng Q, Hoàng Văn Q2, Vũ Văn Kh và Đinh Văn T3 đến tham gia đánh bạc. Khi M câm cai xoc đia , Vũ Quang H là chủ nhà co măt va đưng đăt cưa chơi bac , không thu tiền hồ của ai . Nhưng ngươi đến nhà H chơi đanh bạc không phải nộp tiền cho ai để đ ược chơi đanh bac . Đên khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày, Công an huyện Thái Thụy đa phat hiên băt qua tang, thu giư trên chiêu bac sô tiên 9.650.000 đông, 01 bát sư, 01 đia sư va 04 Q1 vị hình tr òn. Ngoài ra , Cơ quan Công an con quan ly 04 xe may , 09 điên thoai di đông, 01 ví da màu đen, 02 ví da màu nâu và số tiền 5.740.000 đông trên ngươi cac đối tương (trong đo thu giư cua Tùng 3.175.000 đông va cua Quyên 1.100.000 đông, T1 và Q đều khai sư dung đê đanh bac ). Cơ quan Công an đa tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, biên ban quan ly va thu giữ vật chứng . Quá trình bắt giữ, H, M đã bỏ chạy , đến ngày 09/3/2018 H đến Công an huyện Thái Thụy đâu thú; ngày 12/3/2018 do đang điêu tri bênh tai Bênh viên đa khoa tinh Thai Binh , M đã làm đơn xin đâu thú gưi Công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.
Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận sử dụng sô tiên vào việc đánh bạc cụ thể như sau: M, H và Q2 mỗi ngươi sư dung 300.000 đồng; T1 sư dung 3.175.000 đồng; Q sư dung 1.100.000 đồng; Kh sư dung 700.000 đồng; T2 sư dung 500.000 đồng; B sư dung 500.000 đồng; Q1 và T3 mỗi ngươi sư dung 400.000 đồng để đanh bạc.
Bản án hình sự sơ thẩm số 61/2018/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyệnThái Thụy, tỉnh Thái Bình đa quyêt đinh:
- Vê tôi danh: Các bị cáo Lê Văn M, Vũ Quang H, Nguyễn Tiến T2, Nguyễn Mạnh B, Vũ Văn Kh, Đinh Văn T3, Tạ Đồng Sơn T1, Tạ Đồng Quyền, Vũ Phú Q1 và Hoàng Văn Q2 phạm tội “Đánh bạc”.
- Vê hinh phat : Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2, khoản 3 Điều 35; Điều 50; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
+ Xử phạt bị cáo Lê Văn M 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù; phạt tiền bị cáo Mười 15.000.000 đông.
+ Xử phạt bị cáo Vũ Quang H 08 tháng tù, được trừ 03 ngày tạm giữ, còn phải thi hành 07 tháng 27 ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù; phạt tiền bị cáo H 14.000.000 đông.
+ Xử phạt bị cáo Vũ Văn Kh 06 tháng tù, được trừ 06 ngày tạm giữ, còn phải thi hành 05 tháng 24 ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù; phạt tiền bi cao Kh 12.000.000 đông.
Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm e khoản 2 Điều 32; khoản 2, khoản 3 Điều 35; Điều 50; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự:
+ Xử phạt bị cáo Tạ Đồng Sơn T1 08 tháng tù, được trừ 06 ngày tạm giữ, còn phải thi hành 07 tháng 24 ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù; phạt tiền bị cáo Tùng 14.000.000 đông.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T2 07 (bảy) tháng tù, được trừ 06 (sáu) ngày tạm giữ, còn phải thi hành 06 (sáu) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù; phạt tiền bị cáo Tấn 13.000.000 đông.
+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh B 07 (bảy) tháng tù, được trừ 06 (sáu) ngày tạm giữ, còn phải thi hành 06 (sáu) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù; phạt tiền bị cáo Bằng 13.000.000 đông.
+ Xử phạt bị cáo Đinh Văn T3 06 (sáu) tháng tù, được trừ 06 (sáu) ngày tạm giữ, còn phải thi hành 05 (năm) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù; phạt tiền bị cáo Tình 12.000.000 đông.
Bản án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Tạ Đồng Q 07 (bảy) tháng tù, được trừ 06 (sáu) ngày tạm giữ, còn phải thi hành 06 (sáu) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án phạt tù và phạt tiền 13.000.000 đông; xử phạt bị cáo Vũ Phú Q1 30.000.000 đồng; xử phạt bị cáo Hoàng Văn Q2 25.000.000 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo. Ngày 01/8/2018, các bị cáo Lê Văn M, Vũ Quang H, Nguyễn Tiến T2, Nguyễn Mạnh B, Tạ Đồng Sơn T1 có đơn kháng cáo; ngày 02/8/ 2018 các bị cáo Vũ Văn Kh và Đinh Văn T3 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được cải tạo tại địa phương.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hôi đông xet xư giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương và bổ sung yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai tro cua các bị cáo, xem xét các T3 tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm e khoản 1 điều 357, Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Văn Mươi , Vũ Quang H, Tạ Đồng Sơn T 1, Nguyên Tiên T 2, Nguyên Manh B va Đinh Văn T 3, giữ nguyên mức hình phạt tù và hình phạt bổ sung của án sơ thẩm, cHển biện pháp chấp hành hình phạt tù, cho các bị cáo hưởng án treo. Châp nhân môt phân khang cao cua bi cao Kh, giảm cho bị cáo Kh 01 tháng tù; ngoài ra để đảm bảo tính công B còn đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo Q 02 tháng tù.
Căn cứ vào những chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Kháng cáo của các bị cáo làm trong thời hạn luật định là hợp lệ, việc các bị cáo bổ sung yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo không làm xấu đi tình trạng của các bị cáo nên được chấp nhận xem xét theo trình tự xét xử phúc thẩm.
[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ căn cứ để xác định: Trong khoảng thời gian từ 18 giờ đến 21 giờ 45 phút ngày 05/03/2018, các bị cáo M, H, T1, T2, Q, B, Kh, T3, Q1, Q2 đã thực hiện hành vi đánh bạc trái phép với hình thức xóc đĩa tại nhà H ở thôn Đông Dương , xã Thụy Dũng, huyện Thái Thụy , tỉnh Thái Bình thì bị Công an huyện Thái Thụy bắt quả tang, thu giư sô tiên trên chiêu bac va trên ngươi cac bi cao sư dung đê đanh bạc là 13.925.000 đồng. Bị cáo H cho cac bi cao khac sư dung nha minh đê đanh bac và cùng tham gia đanh bac nhưng không thu lơi ich vât chât gi . Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo M, H, T1, T2, B, Kh, T3 và Q về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm gây nguy hại cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự công cộng, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Vì vậy cần áp dụng mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như vai trò của các bị cáo, có như vậy mới đủ tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung. Câp sơ thâm đa xac đinh đây la vu an đông pham gian đơn , bị cáo M là ng ười câm cai nên giư vai tro chinh trong vu an ; bị cáo H là chủ nhà , đông y đê cac bi cao khac đanh bac tai nha minh va trưc tiêp tham gia đanh bac , bị cáo Tùng sử dụng số tiền nhiêu nhât đê đanh bac nên H và T 1có vai trò ngang nhau va giư vai tro thư hai trong vu an. Bị cáo Q sử dụng số tiền để đánh bạc ít hơn bị cáo T 1, bị cáo T2 và bị cáo B sử dụng số tiền để đánh bạc ít hơn bị cáo Q nhưng tham gia đanh bac trươc bị cáo Q , nên cac bi cao Q, T2 và Bcó vai trò ngang nhau và giữ vai trò thứ ba trong vu an; các bị cáo Kh và bị cáo T3 sư dung sô tiên đê đanh bac it hơn bi cao Q nên co vai tro thư tư trong vu an . Xét thấy, viêc câp sơ thâm xac đinh vai tro các bị cáo trong vụ án như đã nêu t rên la phu hơp vơi tinh chât , mưc đô va hanh vi pham tôi cua tưng bi cao.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo M, H, T1, T2, B, T3 thấy: Các bị cáo đều không phải chịu T3 tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Các bị cáo đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, các bị cáo M và H khi bị bắt quả tang đã bỏ trốn sau đó đã ra đầu thú; bị cáo H có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với các bị cáo M, H, T1, T2, B và T3 là phù hợp. Tuy nhiên xét thấy, bị cáo M và bị cáo T3 bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc vào ngày 22/3/2013 nhưng đã chấp hành xong ngày 01/4/2014 nên được coi chưa bị xử phạt hành chính, do đó các bị cáo đều không có tiền án, tiền sự, có nơi cư tr ú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo và việc để bị cáo cải tạo ngoài xã hội không gây nguy hiêm cho xa hôi , không anh hương xâu đên an ninh , trât tư, an toan xa hôi . Căn cứ vào Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngay 15/5/2018 của Hộ i đông Thâm phan Toa an nhân dân Tôi cao thi các bi cao nêu trên đu điêu kiên đươc hương an treo . Vì vậy, Hôi đông xet xư thây cần chấp nhận kháng cáo của các bị cáo M, H, T1, T2, B và T3, sửa án sơ thẩm giữ nguyên mức hình phạt tù và cho các bị cáo hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật và chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện để các bị cáo cải tạo và sửa chữa sai lầm, trở thành người công dân có ích cho xã hội và gia đình.
[5] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Kh thấy: Bị cáo Kh không phải chịu T3 tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, bị cáo Kh có 01 tiền sự bị Công an huyện Thái Thụy xử phạt hành chính ngày 29/9/2017 về hành vi xâm hại sức khỏe người khác vì vậy không đủ điều kiện cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Nhưng xét thấy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc, nên cần chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo Kh, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp.
[6] Xét thấy, tuy bị cáo Tạ Đồng Q không kháng cáo nhưng bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự quy định tại điểm i, s khoản 1và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo Q không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó, việc
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Q mức án 07 tháng tù là có phần nghiêm khắc.
Căn cứ vào Điều 345 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm, để quyết định hình phạt tương xứng với, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, vai trò và nhân thân của từng bị cáo thì cũng cần xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Q là phù hợp với quy định của pháp luật.
[7]. Về án phí: Các bị cáo kháng cáo đươc chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy đinh cua phap luât.
[8]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 345, điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c và e khoản 1 điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
1. Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Lê Văn M, Vũ Q2 H, Tạ Đồng Sơn T1, Nguyễn Tiến T2, Nguyễn Mạnh B, Đinh Văn T3 và Vũ Văn Kh. Sửa bản án sơ thẩm số 61/2018/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân Hện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình về biện pháp chấp hành hình phạt đối với các bị cáo Lê Văn M, Vũ Q2 H, Tạ Đồng Sơn T1, Nguyễn Tiến T2, Nguyễn Mạnh B, Đinh Văn T3 và về phần quyết định hình phạt đối với các bị cáo và Vũ Văn Kh, Tạ Đồng Q.
1.1 - Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015:
- Xử phạt bị cáo Lê Văn M 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 21/11/2018. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Lê Văn M 15.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.
- Xử phạt bị cáo Vũ Quang H 08 (tám) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 21/11/2018. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Vũ Quang H 14.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.
1.2 - Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015
- Xử phạt bị cáo Tạ Đồng Sơn T1 08 (tám) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 04 (bốn) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 21/11/2018. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Tạ Đồng Sơn T1 14.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh B 07 (bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 02 (hai) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 21/11/2018. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Nguyễn Mạnh B 13.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.
- Xử phạt bị cáo Nguyễn Tiến T2 07 (bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 02 (hai) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 21/11/2018. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Nguyễn Tiến T2 13.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.
- Xử phạt bị cáo Đinh Văn T3 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 21/11/2018. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Đình Văn T3 12.000.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước.
1.3 - Giao các bị cáo Lê Văn M, Vũ Quang H, Nguyễn Tiến T2, Nguyễn Mạnh B cho Uỷ ban nhân dân xã T D, huyện T T, tỉnh Thái Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Tạ Đồng Sơn T1 cho Uỷ ban nhân dân xã T Tr , huyện T T, tỉnh Thái Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Đinh Văn T3 cho Uỷ ban nhân dân xã T H, huyện T T, tỉnh Thái Bình giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự. Trong thơi gian thư thách, ngươi đươc hương an treo cô y vi pham nghia vu 02 lân trơ lên thi Toa an co thê quyêt đinh buôc ngươi đươc hương an treo phai châp hanh hinh phat tu cua ban án đã cho hưởng án treo.
1.4 - Áp dụng: khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:
- Xử phạt bị cáo Vũ Văn Kh 04 (bốn) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 06/3/2018 đến ngày 12/3/2018.
- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Vũ Văn Kh 12.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.
1.5- Sửa bản án sơ thẩm số 61/2018/HSST ngày 24 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân Hện Thái Thụy , tỉnh Thái Bình về phần quyết định hình phạt đối với bị cáo Tạ Đồng Q.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 17; Điều 58; Điều 54 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:
- Xử phạt bị cáo Tạ Đồng Q 04 (bốn) tháng tù về tội “Đánh bạc”, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án, được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 06/3/2018 đến ngày 12/3/2018.
- Hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Tạ Đồng Q 13.000.000 đồng để nộp Ngân sách Nhà nước.
2. Về án phí: Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Lê Văn M, Vũ Q2 H, Nguyễn Tiến T2, Nguyễn Mạnh B, Vũ Văn Kh, Đinh Văn T3, Tạ Đồng Sơn T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 21/11//2018./
Bản án 68/2018/HSPT ngày 21/11/2018 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 68/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về