TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 68/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 31 tháng 7 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 253/2018/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 6 năm 2018, về việc: “Tranh chấp ly hôn ”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 29 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1975
Địa chỉ: Số Y, ấp B, xã H, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1969 (vắng mặt)
Địa chỉ: Số Z, ấp A, xã Q, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 05 tháng 6 năm 2018 cũng như tại các lời khai trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lệ H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh H tiến đến hôn nhân trên cơ sở quen biết, hai bên quen biết khoảng bốn tháng thì chị H và anh H về chung sống với nhau vào năm 1993 nhưng không có đăng ký kết hôn. Chị H về chung sống bên gia đình anh H tại ấp A, xã Q. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn do anh H không tin tưởng mà luôn nghi ngờ chị H không chung thủy nên dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi, chị H và anh H tự hòa giải khắc phục tình cảm vợ chồng nhiều lần nhưng không được, vì vậy chị H đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống, chị H và anh H đã sống ly thân từ năm 2008 cho đến nay. Nay chị Nguyễn Thị Lệ H nhận thấy không còn tình cảm với anh Nguyễn Văn H nên yêu cầu được ly hôn với anh H.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 và Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997, các con đã trưởng thành chị H không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản chung: Chị H không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Không có, chị H không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.
Tại biên bản hòa giải ngày 29 tháng 6 năm 2018 bị đơn anh Nguyễn Văn H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Anh H thừa nhận lời trình bày của chị H là đúng, hai bên quen biết khoảng bốn tháng thì chị H và anh H về chung sống với nhau vào năm 1993 nhưng không có đăng ký kết hôn. Về mâu thuẫn anh H thừa nhận do anh không tin tưởng mà nghi ngờ chị H không chung thủy nên vợ chồng thường xuyên cự cãi, anh H và chị H đã sống ly thân từ năm 2008 cho đến nay, chị H đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Nay anh Nguyễn Văn H đồng ý ly hôn với chị Nguyễn Thị Lệ H.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 và Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997, các con đã trưởng thành anh H không yêu cầu giải quyết.
Về tài sản chung: Anh H không yêu cầu giải quyết.
Về nợ chung: Không có, anh H không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra không có yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa hôm nay: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lệ H vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn H, vì chị cho rằng giữa chị và anh H thường xảy ra mâu thuẫn do anh H không tin tưởng chị dẫn đến thường xuyên cự cãi, không thể hàn gắn được, nên chị yêu cầu được ly hôn với anh H. Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 và Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997, các con đã trưởng thành chị H không yêu cầu giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần 2 đền Tòa án xét xử nhưng anh H không đến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Văn H đã nhận được giấy triệu tập lần 2 của Tòa án mời đến giải quyết vụ kiện nhưng anh H vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử thống nhất giải quyết vắng mặt anh Nguyễn Văn H.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Lệ H và anh Nguyễn Văn H chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 1993 nhưng không có đăng ký kết hôn. Xét việc chị H và anh H chung sống với nhau mà không có đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về việc Nam, nữ có điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng.
Chị H trình bày vợ chồng chung sống không không hạnh phúc do anh H không tin tưởng nghi ngờ chị H không chung thủy dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi, nên chị H đã ly thân với anh H từ năm 2008 cho đến nay, chị H trình bày hiện nay anh H đã có gia đình riêng, tại biên bản hòa giải ngày 29/6/2018 anh H đồng ý ly hôn với chị H. Tại phiên tòa hôm nay anh H vắng mặt. Xét việc chị H và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, hiện nay cả hai không còn sống chung, do cả hai không đăng ký kết hôn nhân nên không có giá trị pháp lý là cho ly hôn. Căn cứ khoản 1, Điều 14 Luật hôn và gia đình năm 2014 quy định “Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng, quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định của pháp luật” . Vì Hội Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận chị Nguyễn Thị Lệ H và anh Nguyễn Văn H là vợ chồng.
[2.2] Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai con Có 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 và Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997, các con đã trưởng thành chị H và anh H không yêu cầu giải quyết. Cho nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết về nuôi con chung.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh H không có khai không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung và nợ chung.
Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 9, 14, 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lệ H.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận chị Nguyễn Thị Lệ H và anh Nguyễn Văn H là vợ chồng.
2/ Về nuôi con chung: Vợ chồng có hai con chung tên Nguyễn Văn T, sinh năm 1995 và Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997, các con đã trưởng thành chị H và anh H không yêu cầu giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết về nuôi con chung.
3/ Về tài sản chung: Không có không yêu cầu giải quyết.
4/ Về nợ chung: Không có không yêu cầu giải quyết .
5/ Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị Lệ H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí hôn nhân sơ thẩm. Được trừ vào số tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001595 ngày 06 tháng 6 năm 2018 của cơ quan Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Hồ, chị H đã nộp xong.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
6/ Án xử sơ thẩm công khai báo cho các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú của người vắng mặt./.
Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 68/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về