Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 12/06/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 68/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 36/2018/TLST - HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số: 92/2018/QĐST – HNGĐ ngày 28/5/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Ngọc P, sinh năm 1979.

- Bị đơn: Anh Ngô Tam T, sinh năm 1981.

Cùng thường trú: Tổ 7, Ấp 1, xã BS, huyện LT, tỉnh Đồng Nai.(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện nộp ngày 05 tháng 01 năm 2018 và các lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Hồ Thị Ngọc P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Ngô Tam T sống chung với nhau từ năm 1997 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BS, huyện LT, tỉnh Đồng Nai vào năm 2007.

Qúa trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu. Sau đó, đến năm 2014 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách và không có tiếng nói chung nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, anh T không lo chí thú làm ăn, thường xuyên cờ bạc, bỏ mặc vợ con và có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác (tuy nhiên chị không cung cấp được chứng cứ cho Tòa án). Vợ chồng đã tự hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Từ cuối năm 2017 đến nay anh T đã chuyển ra ngoài phòng trọ ở nên vợ chồng chị đã ly thân và không còn sống cùng nhau. Nay chị nhận thấy mục đích hôn nhân, ý nghĩa hạnh phúc gia đình không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn đối với anh Ngô Tam T.

Về con chung: Chị và anh Ngô Tam T có 03 (ba) con chung tên Ngô Quang S, sinh ngày 14/12/1997, Ngô Hoàng L, sinh ngày 24/9/2001 và Ngô Hoàng P, sinh ngày 17/6/2015. Hiện nay ba cháu đang sống cùng chị, cháu S đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án xem xét, khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L và cháu P. Theo đơn khởi kiện chị yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng một tháng/1 con, tại phiên tòa chị xin được rút lại yêu cầu cấp dưỡng, chị không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Bị đơn anh Ngô Tam T trong quá trình giải quyết vụ án cho đến khi mở phiên tòa, Tòa án đã thông báo thụ lý vụ án, nêu rõ yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ kèm theo; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ anh Ngô Tam T nhiều lần nhưng anh T vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến.

3. Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong việc xác định thẩm quyền, thu thập chứng cứ và tiến hành tố tụng đúng quy định. Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn được đảm bảo quyền lợi và chấp hành pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Bị đơn không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P đối với anh T. Về con chung: Giao cháu Ngô Hoàng L, sinh ngày 24/9/2001 và Ngô Hoàng P, sinh ngày 17/6/2015 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, tạm thời anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. cháu Ngô Quang S, sinh ngày 14/12/1997 đã trưởng thành nên không xem xét

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn chị Hồ Thị Ngọc P khởi kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con với bị đơn anh Ngô Tam T cư trú tại Ấp 1, xã BS, huyện LT, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào điểm a, khoản 1, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì Tòa án nhân dân huyện Long Thành giải quyết là đúng thẩm quyền.

Bị đơn anh Ngô Tam T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị Hồ Thị Ngọc P và anh Ngô Tam T xây dựng trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào năm 2007 tại Ủy ban nhân dân xã BS, huyện LT, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận kết hôn số:85 Quyển số 01/2006 ngày 25/9/2007 nên được xem là hôn nhân hợp pháp.

Theo lời khai của chị P sau khi vợ chồng chung sống được thời gian đầu hạnh phúc thì từ năm 2014 đến nay bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách, không có tiếng nói chung nên thường xuyên xảy ra cãi vã. Anh T không lo chí thú làm ăn, thường xuyên cờ bạc, bỏ mặc vợ con và có hành vi đánh đập chị. Từ năm 2017 đến nay anh T đã chuyển ra ngoài phòng trọ ở nên vợ chồng chị đã ly thân và không còn sống cùng nhau.

Qúa trình thụ lý, Tòa án đã thông báo cho anh Ngô Tam T biết để đến làm việc cũng như tham gia hòa giải hôn nhân giữa chị P và anh T nhưng anh T vắng mặt không tham gia nên Tòa án không tiến hành hòa giải được, điều này cũng thể hiện anh T không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình, hàn gắn quan hệ hôn nhân với chị P.

Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị P và anh T là có mâu thuẫn trầm trọng. Vì vậy, việc chị P yêu cầu được ly hôn với anh T là hoàn toàn có cơ sở nên chấp nhận.

Về con chung: Chị P và anh T có 03 (ba) con chung tên Ngô Quang S, sinh ngày 14/12/1997, Ngô Hoàng L, sinh ngày 24/9/2001 và Ngô Hoàng P, sinh ngày 17/6/2015. Ba cháu đang sinh sống ổn định cùng chị P. Hiện tại chị P có công việc thu nhập ổn định, có khả năng nuôi con và theo nguyện vọng của con là mong muốn được ở cùng mẹ nên khi ly hôn chị P yêu cầu được nuôi cháu L và cháu P là phù hợp với quy định pháp luật nên chấp nhận

Về cấp dưỡng: Theo đơn khởi kiện chị yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng một tháng/1 con, tại phiên tòa chị P xin được rút lại yêu cầu cấp dưỡng, chị P không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét. Khi cần thiết các đương sự có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự khai không có nên không xemxét.

Về án phí: Chị P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dânsự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân và gia đình.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên ghi nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1, Điều 35, khoản 1 Điều 39,điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hồ Thị Ngọc P đối với anh Ngô Tam T về việc „„Tranh chấp ly hôn‟‟. Xử cho chị Hồ Thị Ngọc P được ly hôn với anh Ngô Tam T.

2. Về con chung: Giao cháu Ngô Hoàng L, sinh ngày 24/9/2001 và Ngô Hoàng P, sinh ngày 17/6/2015 cho chị Hồ Thị Ngọc P được quyền nuôi dưỡng, tạm thời anh Ngô Tam T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Ngô Tam T có quyền thăm nom con, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này. Trong trường hợp anh T lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con thì chị P có quyền yêu cầu Tòa án quyết định hạn chế quyền thăm nom con của anh T. Khi cần thiết các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hồ Thị Ngọc P phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) chị P đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 005312 ngày 15 tháng 1 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành (Chị P đã nộp xong).

5. Chị Hồ Thị Ngọc P có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Ngô Tam T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 12/06/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:68/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:12/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về