Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 12/04/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUYÊN QUANG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 68/2018/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 4 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 225/2017/HNGĐ-ST, ngày 25/10/2017 về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2018/QĐST-HNGĐ, ngày 23/02/2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1990;

Địa chỉ: Tổ 31, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang

Nơi ở: Số nhà 2, tổ 7, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang.

* Bị đơn: Anh Tiêu X, sinh năm 1988;

Địa chỉ: Tổ 31, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Nơi ở: Tổ 33, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Chị Nguyễn Thị T và anh Tiêu X đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị và anh Tiêu X đăng ký kết hôn ngày 05/3/2012 tại UBND xã L, huyện L, tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo đúng phong tục, tập quán ở địa phương. Thời gian đầu chung sống, vợ chồng hoà thuận hạnh phúc. Trong quá trình hơn 5 năm chung sống vợ chồng anh chị dần dần phát sinh mâu thuẫn, tình cảm không còn, vợ chồng sống không hạnh phúc không quan tâm đến nhau và luôn bất đồng quan điểm. Nguyên nhân do anh X mải chơi, không chăm lo cho gia đình, vợ con. Gần đây anh X thường hay gây sự, chửi bới và dọa đánh chị. Chị đã chuyển ra ngoài ở và sống ly thân với anh X. Đến nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn và tiếp tục cùng chung sống với nhau được nữa nên chị làm đơn xin ly hôn anh X.

Về con chung: Quá trình chung sống chị và anh X có 2 con chung tên là: Tiêu Q, sinh ngày 01/11/2013 và Tiêu C, sinh ngày 25/9/2015. Vợ chồng ly hôn chị đề nghị được nuôi cháu Tiêu C, còn cháu Tiêu Q chị nhất trí để cho anh X nuôi. Hiện nay cháu C đang ở cùng chị, còn cháu Q đang ở cùng anh X. Chị không yêu cầu giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị và anh X không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về vay nợ: Chị và anh X không vay ai hay cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã gửi thông báo về việc vụ thụ lý vụ án, thông báo hoà giải và đối chiếu chứng cứ cho anh Tiêu X (hình thức gửi trực tiếp cho mẹ đẻ của anh X là bà Lê M nhận và giao cho anh X) nhưng anh X đều vắng mặt không có lý do và cũng không nộp cho Tòa án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Do vậy Tòa án không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được. Tòa án đã tiến hành thu thập chứng cứ tại chính quyền địa phương để ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Kết quả thu thập chứng cứ thể hiện: Sau khi kết hôn anh Tiêu X và chị Nguyễn Thị T đăng ký kết hôn ngày 05/3/2012 tại UBND xã L, huyện L, tỉnh Tuyên Quang. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống cùng nhà mẹ đẻ của anh X tại tổ 31, phường T, thành phố T. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn do anh X mải chơi, vợ chồng hay lục đục. Hiện nay chị T không chung sống cùng anh X và gia đình anh X nữa. Vợ chồng anh chị có 02 con chung tên là Tiêu Q và Tiêu C, cháu C đang ở cùng chị T, còn cháu Q đang ở cùng anh X và bố mẹ anh X tại tổ 33, phường T, thành phố T. Anh chị không có tài sản chung và vay nợ chung.

Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và ý kiến như đã trình bày, chị đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho chị được ly hôn với anh Tiêu X; đề nghị Tòa án giải quyết giao cháu Tiêu C, sinh ngày 25/9/2015 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Giao cháu Tiêu Q, sinh ngày01/11/2013 cho anh X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T xác nhận chị và anh X không có tài sản chung, không có vay nợ chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với anh Tiêu X đến tham gia tố tụng nhưng anh Phong vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện viện kiểm sát phát biểu ý kiến Từ khi thụ lý đơn và trong quá trình giải quyết vụ án đã thực hiện đảm bảo đúng theo quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Hội đồng xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật, trình tự tại phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật; Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: ChÊp nhËn yªu cÇu khëi kiÖn của chị Nguyễn Thị T về việc xin ly hôn anh Tiêu X.

Về con chung: Giao con chung Tiêu C, sinh ngày 25/9/2015 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Giao con chung Tiêu Q, sinh ngày 01/11/2013 cho anh Tiêu X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Anh X và chị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, vay nợ chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Tiêu X không có tài sản chung; không có vay nợ chung.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho nguyên đơn và bị đơn. Ngày 25/10/2017, Toà án thụ lý vụ án và gửi thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh Tiêu X.

Xác minh với ông Tiêu V và bà Lê M là bố mẹ đẻ anh Tiêu X được biết, anh X hiện đang chung sống với ông bà ở địa chỉ: Tổ 33, phường T, thành phố T. Bà nhiều lần nhận được giấy báo của Tòa án nhân dân thành phố Tuyên Quang gửi cho anh X được tống đạt trực tiếp. Sau khi nhận giấy, bà đã giao giấy trực tiếp cho anh X. Anh X cũng biết Tòa án gửi Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Anh X có nói với ông bà về việc chị T viết đơn ly hôn, anh X nhất trí nội dung đơn của chị T, và đã ký vào đơn ly hôn của chị T nhưng vì lý do cá nhân, anh X không chấp hành pháp luật, không đến Toà án giải quyết vụ việc, tại các buổi hòa giải anh X vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không nộp các văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, và các chứng cứ kèm theo. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Tiêu X.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Tiêu X kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh X là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng chỉ hòa thuận được thời gian đầu mới kết hôn, sau đó phát sinh mâu thuẫn do anh X mải chơi, không quan tâm đến gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân không ai còn quan tâm đến ai nữa. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn và không thể chung sống cùng nhau được nữa. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã sâu sắc, mục đích của hôn nhân nhằm xác lập quan hệ vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc, bền vững đã không thể đạt được, vì vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T xin ly hôn anh Tiêu X.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Tiêu X có 02 con chung là Tiêu Q, sinh ngày 01/11/2013 và Tiêu C, sinh ngày 25/9/2015. Hiện nay cháu C đang ở với chị T, còn cháu Q đang ở với anh X. Xét yêu cầu của chị T xin trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu C vì hiện nay cháu còn nhỏ (chưa đủ 3 tuổi) là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận. Còn cháu Q đang ở và đi học mẫu giáo ổn định với anh X và gia đình anh X, để tránh xáo trộn và gây ảnh hưởng tâm lý của con trẻ cần giao cháu Q cho anh X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục sau ly hôn. Chị T không yêu cầu bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị Nguyễn Thị T xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có vay nợ chung nên không yêu cầu Toà án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo:

Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Tiêu X không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: - Các Điều 28 ; 147; khoản 2 Điều 227; 228; 266; 267; 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Điều 51; 56; 81; 82; 83; 84 của Luật Hôn nhân và gia đình.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T về việc xin ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Tiêu X.

2. Về con chung: Giao con chung là Tiêu C, sinh ngày 25/9/2015 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Giao con chung là Tiêu Q, sinh ngày 01/11/2013 cho anh Tiêu X trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị T, anh X không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004898 ngày 19/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang. Chị T đã nộp đủ án phí. Anh Tiêu X không phải chịu án phí.

Chị Nguyễn Thị T và anh Tiêu X có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2018/HNGĐ-ST ngày 12/04/2018 về ly hôn

Số hiệu:68/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:12/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về