TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VŨ THƯ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 68/2017/HSST NGÀY 14/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 71/2017/HSST ngày 29 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:
Trần Văn T, sinh năm 1991.
- Nơi cư trú: Thôn T, xã X, huyện V, tỉnh Thái Bình.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Trần Văn N (Đã chết) và bà Phạm Thị T, sinh năm 1957. Bị cáo chưa có vợ.
Nhân thân: Còn nhỏ được gia đình nuôi ăn học hết lớp 9/12, sau đó ở nhà lao động tự do. Bị can sử dụng ma túy từ tháng 6 năm 2015, hiện đang sử dụng ma túy dưới hình thức tiêm vào tĩnh mạch.
Tiền án: Bản án số 37/2016/HSST ngày 30/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư xử phạt Trần Văn T 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản sản”, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 20/4/2016. Ngày 20/01/2017 T chấp hành xong hình phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 573/GCN ngày 20/01/2017 của Trại giam Thanh Cẩm - Bộ Công an).
Tiền sự : Không
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 12/7/2017 đến ngày 18/7/2017 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Thái Bình.
( Bị cáo trích xuất có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 12/7/2017, Trần Văn T điều khiển xe môtô nhãn hiệu HOASUNG, màu xanh, biển số đăng ký 16L4 - xxxx đi từ nhà lên khu vực C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình để tìm mua Hê rôin về sử dụng cho bản thân. Tại đây, T gặp và mua 01 gói Hêrôin của một người phụ nữ khoảng 40 tuổi không biết tên và địa chỉ cụ thể với giá 100.000đ. Sau đó, T bỏ gói Hêrôin vừa mua được vào trong túi quần sooc phía trước bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô đi về nhà. Khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày, khi đi đến khu vực đường 10 thuộc địa phận tổ T, thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình thì T bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện V phát hiện đưa về Uỷ ban nhân dân thị trấn V kiểm tra, thu giữ tại túi quần soóc bên phải, phía trước T đang mặc 01 gói Hêrôin được gói bằng giấy trắng có in chữ, có trọng lượng 0,3124 gam. Ngoài ra còn quản lý của T 01 xe môtô nhãn hiệu HOASUNG, màu xanh, biển số đăng ký 16L4- xxxx.
Kết luận giám định số 306/KLGĐ- PC 54 ngày 13/7/2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “01 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục thu của Trần Văn T gửi giám đinh là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có trọng lượng 0,3124 gam (Không phẩy ba nghìn một trăm hai mươi bốn gam). Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ”.
Bản cáo trạng số 71/KSĐT ngày 29/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư đã truy tố Trần Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự 1999.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư vẫn giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Xử phạt: Trần Văn T mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện, không có việc làm và thu nhập ổn định.
Về xử lý vật chứng:
Tịch thu số Hêrôin thu của Trần Văn T sau giám định hoàn lại còn 0,2956 gam trong bao niêm phong số 306/KLGĐ-PC54, đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện V ngày 30/8/2017 để tiêu huỷ.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vũ Thư, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Các chứng cứ buộc tội bị cáo:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng đã mô tả và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện V lập hồi 17 giờ 00 ngày 12/7/2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình;
- Biên bản niêm phong vật chứng do Công an huyện Vũ Thư lập hồi 18 giờ 35 phút ngày 12/7/2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình;
- Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng: Anh Tô Văn Q, sinh năm 1974, trú tại: tổ A, thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình và anh Trần Ngọc H, sinh năm 1978, trú tại: Tổ T, thị trấn V, huyện V, tỉnh Thái Bình;
- Kết luận giám định số 306/KLGĐ- PC 54 ngày 13/7/2017, của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “01 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục thu của Trần Văn T gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có trọng lượng 0,3124 gam (Không phẩy ba nghìn một trăm hai mươi bốn gam). Heroine STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ”;
Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi tàng trữ trái phép 0,3124 gam Hêrôin để sử dụng cho bản thân của Trần Văn T đã phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Điều luật quy định như sau:
Điều 194: Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý.
“1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bẩy năm.
.....
5. Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Điều 249 - Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý ”
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
…
c, Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
So với quy định tại khoản 1 điều 194 BLHS 1999 thì quy định tại khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi hơn cho người phạm tội nên cần áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để giảm hình phạt cho bị cáo. Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định này.
[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi tàng trữ Hêrôin có trọng lượng 0,3124gam của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ hành vi đó đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội.
Trong những năm gần đây, tình hình tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Không một quốc gia, dân tộc nào thoát ra ngoài vùng xoáy khủng khiếp của nó để tránh khỏi những hậu quả do nghiện hút và buôn bán ma túy gây ra. Ma túy đang làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt kiệt nhân lực tài chính, hủy diệt những tiềm năng quý báu mà lẽ ra phải được huy động cho phát triển kinh tế - xã hội để đem lại ấm no hạnh phúc cho mọi người. Chính ma túy đã gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế xã hội…
[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng của bị cáo:
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xét đến nhân thân của bị cáo thì thấy: bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo có 01 tiền án: Bản án số 37/2016/HSST ngày 30/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Thư xử phạt Trần Văn T 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản sản”, T đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/1/2017 nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, sửa chữa sai phạm và tu dưỡng bản thân mà còn vi phạm. Chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Phạm tội lần này bị cáo còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tiền sự.
Là người đàn ông trưởng thành lẽ ra bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy thì phải tránh xa loại tệ nạn này, song để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân. Đây là hành vi vi phạm pháp luật được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo khai báo thành khẩn. Do vậy nên áp dụng điểm p khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo cũng là thể hiện sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta.
Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ , tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: cần phải xử lý nghiêm khắc, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm .
* Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.
Bị cáo Trần Văn T mua ma túy về sử dụng cho bản thân chứ không nhằm mục đích kiếm lời. Bị cáo là đối tượng nghiện, không có việc làm và thu nhập ổn định. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về vật chứng, xử lý vật chứng:
- Đối với số Hêrôin của Trần Văn T sau giám định hoàn lại còn 0,2956 gam và bao gói trong bao niêm phong số 306/KLGĐ-PC54 đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện V ngày 30/8/2017 là vật chứng của vụ án nên tịch thu để tiêu huỷ.
[6] Các vấn đề khác trong vụ án:
- Đối với người phụ nữ khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ cụ thể tại khu vực C, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Bình. Quá trình điều tra không xác định được con người cụ thể đã bán Herôin cho T. Vì vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V không có căn cứ để xử lý là phù hợp.
- Đối với xe môtô nhãn hiệu HOASUNG, màu xanh, biển số đăng ký 16L4- xxxx, Trần Văn T khai mua của một người không quen biết vào khoảng tháng 06/2012 với giá 3.500.000 đồng. Qúa trình điều tra xác định xe mô tô nhãn hiệu HOASUNG, màu xanh, biển số đăng ký 16L4- xxxx có đăng ký mang tên chị Ngô Thị V, sinh năm 1975, trú tại thôn 3- N, xã T, huyện K, thành phố H nhưng chị V chưa từng đăng ký hay sử dụng xe mô tô trên. Trần Văn T cũng không xuất trình được giấy tờ mua bán xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V tách ra tiếp tục điều tra xác minh khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có 15 ngày kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 đã được bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH14 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Trần Văn T 02(hai) năm 03(ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/7/2017.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện, không có việc làm và thu nhập ổn định.
2. Về vật chứng, xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu số Hêrôin thu của Trần Văn T sau giám định hoàn lại còn 0,2956 gam và bao gói trong bao niêm phong số 306/KLGĐ-PC54 đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện V ngày 30/8/2017 để tiêu huỷ.
3. Án phí: Áp dụng khoản 1, 2 điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm,thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
“Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
4. Về quyền kháng cáo đối với bản án:
Án xử công khai, sơ thẩm. Có mặt bị cáo. Báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 68/2017/HSST ngày 14/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 68/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về