Bản án 68/2017/HSPT ngày 29/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 68/2017/HSPT NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 29 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 98/2017/HSPT ngày 24 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo Bùi Văn K do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 21 tháng 9 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Bùi Văn K; sinh ngày 10/7/1979;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn A, xã Đ, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; trình độ văn hóa: 06/12; nghề nghiệp: Lái xe; con ông Bùi Văn T, đã chết; con bà Chu Thị C; vợ là Nguyễn Thị H; có 02 con, con lớn sinh năm2001, con nhỏ sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không có.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/6/2017;có mặt.

Những người tham gia tố tụng khác có liên quan đến kháng cáo:

Người bị hại: Anh Nguyễn Hoàng T (đã chết);

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Chị Nguyễn Thị H (vợ của anh Nguyễn Hoàng T);

Trú tại: Thôn 2, xã Đ, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc; vắng mặt.

NHẬN THẤY

Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnhLạng Sơn và bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 21 tháng 9 năm2017 của Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ 15 phút ngày 25/3/2017, Bùi Văn K điều khiển xe ô tô tải (tải trọng 1.400kg), biển kiểm soát 88C-034.45 chở 29 con lợn từ xã Đ, huyện V, tỉnh Vĩnh Phúc lên thành phố Lạng Sơn để giao cho lò mổ lợn. Cùng đi trên xe có anh Nguyễn Hoàng T (là chủ xe). Khoảng 07 giờ 15 phút cùng ngày, khi đến Km 54 + 100 Quốc lộ 1A thuộc địa phận Thôn K, xã Q, huyện C, tỉnh Lạng Sơn (Đây là đoạn đường có biển cảnh báo nguy hiểm số207b – biển báo đường giao nhau với đường không ưu tiên), Bùi Văn K thấy có xe mô tô đi phía trước cùng chiều hướng Hà Nội – Lạng Sơn. Bùi Văn Kđiều khiển xe ô tô vượt lên bên trái xe mô tô phía trước. Trong khi vượt thì có xe ô tô ngược chiều đi tới, Bùi Văn K rà phanh, đánh lái về bên phải nhưng do ô tô chở hàng nặng nên xe mất thăng bằng. Bùi Văn K tiếp tục đánh lái về bên trái dẫn đến xe bị nghiêng và đổ về bên phải. Trong thời điểm đó, Nguyễn Hoàng T ngồi ở ghế phụ bên phải trong ca bin mở cửa xe để thoát ra ngoài nhưng bị bên phải thùng xe ô tô đổ đè lên người dẫn đến chết tại chỗ.

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 25/3/2017, Công an huyện Chi Lăng đã tiến hành xác định tải trọng của hàng hóa trên xe ô tô biển kiểm soát 88C-034.45 do Bùi Văn K điều khiển. Kết quả: Tổng trọng lượng của 29 con lợn bao gồm cả lồng sắt là 2.979kg.

Tại  bản  kết  luận  giám  định  pháp  y  về  tử  thi  số  55/2017/TT  ngày11/5/2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Lạng Sơn đã kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Hoàng T là do đa chấn thương dập biến dạng thi thể, vỡ xương hộp sọ vùng trán do tương tác với vật tày lực quán tính lớn.

Sau khi tai nạn xảy ra, Bùi Văn K đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho gia đình nạn nhân Nguyễn Hoàng T số tiền 10.000.000đồng. Do có mối quan hệ gia đình (vợ của Bùi Văn K là em gái vợ Nguyễn Hoàng T) nên gia đình nạn nhân Nguyễn Hoàng T không yêu cầu Bùi Văn K phải bồi thường gì thêm đồng thời làm đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Bùi Văn K.

Ngày 20/6/2017, Công an huyện Chi Lăng đã trả lại xe ô tô biển kiểm soát 88C-034.45 và giấy tờ có liên quan cho chị Nguyễn Thị H  là vợ của nạn nhân Nguyễn Hoàng T.

Tại cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 29/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chi Lăng đã truy tố bị cáo Bùi Văn K về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST  ngày 21 tháng 9 năm2017, Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn K phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Bùi Văn K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, những người tham gia tố tụng khác.

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, bị cáo Bùi Văn K có đơn kháng cáo xin hưởng án treo với các lý do: Vụ tai nạn giao thông xảy ra là ngoài ý muốn; bị cáo đã thật sự ăn năn, hối cải và thành khẩn khai báo; hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Bùi Văn K vẫn giữ nguyên kháng cáo;

Chị Nguyễn Thị H (vợ anh Nguyễn Hoàng T) vắng mặt có đơn xin cho bị cáo được hưởng án treo;

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Bùi Văn K mức án 01 năm 03 tháng tù giam là có căn cứ. Sau khi xét xử phúc thẩm vợ của người bị hại có đơn xin cho bị cáo được hưởng án treo; đồng thời bị cáo cũng xuất trình thêm tài liệu chứng minh đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Xét thấy bị cáo có thêm tình tiết mới và có đủ điều kiện cho hưởng án treo theo hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo hưởng án treo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Bùi Văn K đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình; thừa nhận lỗi của mình là chở quá trọng tải xe và vượt không đúng quy định. Tòa án nhân dân huyện Chi Lăng tuyên bố bị cáo Bùi Văn K phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, không oan.

Xét kháng cáo của bị cáo xin hưởng án treo, thấy rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Bùi Văn K mức hình phạt 01 năm 03 tháng tù giam là phù hợp, đúng quy định pháp luật.

Sau phiên tòa sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H (vợ của anh Nguyễn Hoàng T), có đơn đề nghị xin cho bị cáo được hưởng án treo với các lý do: Sự việc xảy ra là ngoài ý muốn; sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã đến động viên thămhỏi, lo hậu sự chu đáo và tự nguyện bồi thường cho gia đình chị 10.000.000 đồng, ngoài ra còn lo các chi phí khác cho gia đình chị. Bên cạnh đó, bị cáo Bùi Văn K còn là em rể, hai bên gia đình qua lại thân thiết. Hiện nay chồng chị cũng đã mất. Gia đình em gái chị, cũng là vợ của bị cáo rất khó khăn, vợ bị cáo hay đau ốm, bị cáo lại là lao động chính trong gia đình. Nếu như bị cáo phải chấp hành án phạt tù thì mọi việc sẽ dồn lên vai vợ của bị cáo, không ai chăm lo cho gia đình và hai cháu nhỏ đang đi học; Bị cáo cũng nộp thêm những giấy tờ về việc hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới so với các tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng nên có thể áp dụng thêm cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực khắc phục hậu quả; nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; có nơi cư trú cụ thể rõ ràng, gia đình bị hại có đơn xin cho bị cáo hưởng án treo; bản thân bị cáo có thể tự cải tạo tại địa phương. Xét hoàn cảnh phạm tội và đối chiếu với Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng điều 60 của Bộ luật Hình sự về án treo, thì có đủ điều kiện cho bị cáo hưởng án treo. Vì vậy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo sửa án sơ thẩm về trách nhiệm hình sự, cụ thể giữ nguyên mức hình phạt tù, nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Việc sửa án này là do có tình tiết mới. Nhận định này cũng phù hợp với ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại phiên tòa.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo Bùi Văn K được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị,

Vì các lẽ trên,

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 248; điểm đ khoản 1 Điều 249 của Bộ luật tố tụng hình sự;

QUYẾT ĐỊNH

1. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 56/2017/HSST ngày 21 tháng 9 năm 2017 của Toà án nhân dân huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn, cụ thể:

Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khoản1, 2 Điều 60 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày xét xử phúc thẩm (ngày 29/11/2017).

Giao bị cáo Bùi Văn K cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện V, tỉnh VĩnhPhúc để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

2.  Về  án  phí:  Áp  dụng  điểm  d,  h  khoản  2  Điều  23  Nghị  quyết  số:326/2016/UBTVQH14 ngày 21/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Bùi Văn K không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 29/11/2017)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

459
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 68/2017/HSPT ngày 29/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:68/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về