TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 67/2020/HS-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 31 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 64/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 220/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Bảo T, sinh năm 1993; nơi sinh: Huyện AP, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp AH, thị trấn AP, huyện An Phú, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc Tr, sinh năm 1970 và bà Võ Thị H, sinh năm 1972; anh em ruột có 02 người, bị cáo là người lớn nhất; chưa có vợ con.
Tiền án, tiền sự: Chưa.
Nhân thân: Ngày 26/9/2019, Ủy ban nhân dân thị trấn An Phú, huyện An Phú ban hành Quyết định số 102/QĐ-UBND giao bị cáo cho Cơ sở Điều trị - Cai nghiện ma túy tỉnh An Giang quản lý do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/9/2020 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
- Ông Nguyễn Văn H (T), sinh năm 1976; nơi cư trú: Ấp VP, xã VHĐ, huyện AP, tỉnh An Giang; vắng mặt.
- Bà Trần Thị Trang Đ, sinh năm 1991; nơi cư trú: Ấp VP, xã VHĐ, huyện AP, tỉnh An Giang; vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Kim S, sinh năm 1971; nơi cư trú: Ấp AT, thị trấn AP, huyện AP, tỉnh An Giang; có mặt.
Người làm chứng:
- Ông Nguyễn Ngọc Tr, sinh năm 1970; vắng mặt.
- Bà Lâm Thị D, sinh năm 1977; vắng mặt.
- Ông Nguyễn Văn Gi, sinh năm 1982; vắng mặt.
- Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do là con nuôi của ông Nguyễn Văn H (ngụ ấp VP, xã VHĐ, huyện AP) nên Nguyễn Bảo T thường xuyên đến khu vực nhà ông H chơi.
Khoảng 07 giờ ngày 15/9/2020, T đến nhà ông H chơi thì phát hiện điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A5, màu trắng của ông H để bên trong tủ thờ nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện, T giả vờ lấy điện thoại coi và quan sát thấy không có ai, T liền lấy trộm điện thoại Samsung Galaxy A5 của ông H mang đến tiệm cầm đồ Kim S (ấp AT, thị trấn AP, huyện AP) bán được 400.000 đồng và tiêu xài hết.
Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, T tiếp tục đến khu vực nhà ông H, nên ông H hỏi T về việc điện thoại của ông bị mất trộm, nhưng T không trả lời mà đi đến nhà chị Trần Thị Trang Đ cạnh đó ngồi chơi. T phát hiện nhà chị Đ không người trông giữ, nên lén lút đi vào trong nhà lấy trộm điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5, màu đen của chị Đ để trên tủ thờ, thì bị ông H và chị Đ phát hiện báo Công an đến bắt quả tang T cùng tang vật.
Căn cứ các Kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 41/KL-ĐGTSTTHS ngày 18/9/2020, 43/KL-ĐGTSTTHS ngày 22/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Phú, tỉnh An Giang xác định:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5, màu đen, đã qua sử dụng có giá trị là 2.500.000 đồng.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A5, màu trắng, số imei 356009070729778 đã qua sử dụng có giá trị là 750.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản định giá là 3.250.000 đồng.
Ngày 15/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện An Phú ban hành Quyết định tạm giữ đối với Nguyễn Bảo T. Đến ngày 21/9/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện An Phú ban hành Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh tạm giam đối với Nguyễn Bảo T về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Tại Bản Cáo trạng số 59/CT-VKS.AP ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú truy tố bị cáo Nguyễn Bảo T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, - Bị cáo Nguyễn Bảo T khai nhận T bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng truy tố và không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, cũng như mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị. Bị cáo mong muốn Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Trong phát biểu luận tội, Kiểm sát viên trình bày: Xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Bảo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, khẳng định Cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật nên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo tại phiên tòa.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có, Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Gia đình bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền 400.000 đồng để khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, nhận thức pháp luật còn hạn chế; tài sản trộm cắp đã được thu hồi và trả lại cho bị hại theo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng.
Từ những phân tích, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Nguyễn Bảo T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện An Phú trao trả lại cho bị hại ông Nguyễn Văn H, bà Trần Thị Trang Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến bụ án bà Nguyễn Thị Kim S nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Nguyễn Văn H, bà Trần Thị Trang Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Kim S đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Kim S có giao dịch liên quan đến tài sản mà bị cáo phạm tội mà có nhưng không biết hay liên quan gì đến việc bị cáo thực hiện tội phạm nên không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Trong lời nói sau cùng, bị cáo có yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình, làm một công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa, bị hại ông Nguyễn Văn Hồng, bà Trần Thị Trang Đ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Kim S, những người làm chứng ông Nguyễn Ngọc Tr, bà Lâm Thị D, ông Nguyễn Văn Gi, ông Nguyễn Văn Đ đều vắng mặt không rõ lý do. Tuy nhiên, những người tham gia tố tụng này đã có lời khai thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án và đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú, bị cáo không có ý kiến về sự vắng mặt của họ. Xét việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng này không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ là phù hợp quy định tại Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
[2] Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập. Tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:
Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập là đầy đủ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về nội dung vụ án:
Lời nhận tội của bị cáo Nguyễn Bảo T tại phiên tòa hoàn T phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, đồng thời cũng phù hợp với lời khai của của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng; phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra. Qua xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 07 giờ ngày 15/9/2020, bị cáo đến nhà ông Hồng chơi và nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản, bị cáo liền lấy trộm điện thoại Samsung Galaxy A5 của ông H mang đến tiệm cầm đồ Kim S bán được 400.000 đồng và tiêu xài hết. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, T tiếp tục đi đến nhà chị Trần Thị Trang Đ chơi và lén lút lấy trộm điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5, màu đen của chị Đ để trên tủ thờ.
[4 Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo:
Bị cáo Nguyễn Bảo T là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Thủ đoạn phạm tội của bị cáo là lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác trong việc quản lý tài sản của chủ sở hữu, lén lút chiếm đoạt 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy A5 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 với tổng giá trị tài sản là 3.250.000 đồng theo Kết luận về việc định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 41/KL-ĐGTSTTHS ngày 18/9/2020, 43/KL-ĐGTSTTHS ngày 22/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện An Phú, tỉnh An Giang.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác mà còn gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.
Tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân đều bị pháp luật nghiêm trị. Bị cáo đang ở tuổi lao động và có sức khỏe, lẽ ra bị cáo cần tìm co mình một công việc phù hợp để tạo thu nhập chính đáng nuôi sống bản thân và giúp đỡ gia đình nhưng vì bản chất lười lao động, nhưng lại muốn có tiền tiêu xài một cách nhanh chóng mà bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.
Xét về nhân thân, bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa từng có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, thông qua lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thì vào năm 2019, bị cáo từng có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và được đua đi cắt cơn giải độc tại Cơ sở Điều trị - Cai nghiện ma túy tỉnh An Giang theo Quyết định số 102/QĐ-UBND ngày 26/9/2019 của Ủy ban nhân dân thị trấn An Phú, huyện An Phú. Điều này thể hiện tính chấp hành của bị cáo đối với chính sách, pháp luật của Nhà nước còn hạn chế.
[5 Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [6 Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo đã thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo đã tự nguyện giao nộp số tiền 400.000 đồng để khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; tài sản trộm cắp đã được thu hồi và trả lại cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng cho bị cáo khi lượng hình.
[7 Về hình phạt:
Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như sự cần thiết đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về hình phạt áp dụng đối với bị cáo, đó là cần thiết phải áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian nhất định nhằm đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội. Việc áp dụng hình phạt tù còn nhằm đảm bảo mục đích cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội về sau.
[8] Về hình phạt bổ sung:
Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9] Về xử lý vật chứng:
Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện An Phú đã trao trả 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy A5 cho ông Nguyễn Văn H (T) và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A5 cho bà Trần Thị Trang Đ theo Quyết định xử lý vật chứng số 31 ngày 09/10/2020 và trao trả số tiền 400.000 đồng cho bà Nguyễn Thị Kim S theo Quyết định xử lý vật chứng số 33 ngày 02/11/2020. Việc xử lý vật chứng của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện An Phú là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[10] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại ông Nguyễn Văn H, bà Trần Thị Trang Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Kim S đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[11] Về trách nhiệm của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Bà Nguyễn Thị Kim S mặc dù có giao dịch mua bán tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, khi giao dịch mua bán, bà S không biết tài sản này do bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan cảnh sát – Công an huyện An Phú không xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
[12] Về án phí hình sự sơ thẩm:
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Bảo T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;Căn cứ khoản 1 Điều 173; các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bảo T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt, tạm giam ngày 15/9/2020 (ngày mười lăm tháng chín năm hai nghìn không trăm hai mươi).
2. Về án phí sơ thẩm và các chi phí tố tụng:
Căn cứ các điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Buộc bị cáo Nguyễn Bảo T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo không phải chịu các chi phí tố tụng khác.
3. Về quyền kháng cáo:
Căn cứ các điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Nguyễn Bảo T có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Riêng thời hạn kháng cáo của bị hại ông Nguyễn Văn H, bà Trần Thị Trang Đ và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án bà Nguyễn Thị Kim S là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 67/2020/HS-ST ngày 31/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 67/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về