Bản án 67/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ GIA MẬP, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 67/2020/HSST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 23 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Bù Gia Mập, mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 71/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 34/2020/HSST-QĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lương Vũ A; Tên gọi khác: Cún; Sinh năm: 1994; Tại Bình Phước; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chổ ở: thôn 4, xã TH, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước; Dân tôc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: làm nông; Con ông Lương Thanh B (không rõ năm sinh) và bà Lê Thị C, sinh năm 1968; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20 tháng 7 năm 2020 cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng:

Anh Trần Văn D, sinh năm 1991; Hộ khẩu thường trú: Thôn 9, xã BT, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).

Anh Điểu Đ, sinh năm 1964; Hộ khẩu thường trú: Thôn 9, xã BT, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Do muốn có tiền tiêu xài và ma túy để sử dụng, khoảng 20 giờ 45 phút ngày 20 tháng 7 năm 2020 Lương Vũ A đang ở nhà thì có một đối tượng tên E (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện thoại hỏi mua 1.500.000 đồng tiền ma túy và thỏa thuận địa điểm giao nhận tại khu vực chợ Bù Nho, huyện Phú Riềng thì A đồng ý. Sau đó, A điện thoại cho đối tượng tên F (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy đem về sử dụng và bán lại cho E để lấy tiền tiêu xài. A và F thỏa thuận địa điểm giao nhận ma túy tại thôn 4, xã TH, huyện Bù Đốp. Sau khi thỏa thuận xong, A điều khiển xe mô tô, biển số giả 93C1-199.17 đến gặp F để mua ma túy. Khi mua được ma túy, A bỏ vào túi quần bên phải rồi điều khiển xe đến địa điểm đã thỏa thuận với E để bán ma túy cho E. Khi A đi đến thôn 9, xã BT, huyện Bù Gia Mập thì bị Công an xã BT kết hợp với Công an huyện Bù Gia Mập phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với A và thu giữ tang vật gồm: 01 gói nylon màu trắng hàn kín bên trong chứa tinh thế màu trắng (sau khi thu giữ đã niêm phong); 01 xe mô tô, biển số giả 93C1-199.17; 01 điện thoại di động hiệu VIVO 1820 màu xanh để phục vụ việc điều tra.

Căn cứ Kết luận giám định số 171 ngày 24 tháng 7 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bình Phước kết luận: “Tinh thể màu trắng có trong 01 gói nylon miệng kéo dính được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 6,3516 gam” và hoàn lại sau giám định là 5,9233 gam Methamphetamine.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 5,9233 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật chứng của vụ án nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với xe mô tô, biển số giả 93C1-199.17, số khung RLCE1S9A0CY024623, số máy 1S9A-024633 đứng tên chủ sở hữu Phạm Văn Tâm ngụ tại thôn Phú Tâm, xã Phú Trung, huyện Phú Riềng. Xe mô tô của ông Tâm bị mất trộm vào tháng 11 năm 2018 tại huyện Phú Riềng. Do đó, ngày 01 tháng 9 năm 2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập đã bàn giao xe mô tô này cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Riềng để điều tra theo thẩm quyền.

Đối với điện thoại di động VIVO 1820 màu xanh, đây điện thoại của Lương Vũ A sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ.

Ngoài ra, trong quá trình điều tra Lương Vũ A khai trước ngày bị bắt khoảng 01 tháng A có mua của đối tượng F 1.500.000 đồng ma túy và đem đến khu vực chợ Bù Nho, huyện Phú Riềng bán cho E lấy số tiền 2.000.000 đồng. Tuy nhiên, A không biết nhân thân lai lịch của F và E, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập không làm việc được với E và F nên không có căn cứ để xử lý lần bán ma túy này của Lương Vũ A.

Tại bản cáo trạng số: 64/CT-VKS ngày 11 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập đã truy tố bị cáo Lương Vũ A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập vẫn giữ nguyên quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 2 điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, tuyên phạt bị cáo A mức án từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm 6 tháng tù.

Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lương Vũ A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng số 64/CT-VKS ngày 11 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập đã truy tố.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng là anh Trần Văn D, anh Điểu Đ, biên bản bắt người phạm tội quản tang, kết luận giám định, phù hợp về thời gian, địa điểm cách thức thực hiện tội phạm, vật chứng thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử kết luận: Do muốn có tiền để tiêu xài và có ma túy để sử dụng, nên ngày 20 tháng 7 năm 2020 bị cáo Lương Vũ A đến gặp một đối tượng tên F (không rõ nhân thân lai lịch) tại thôn 4, xã TH huyện Bù Đốp để mua 1.500.000 đồng ma túy rồi đem đến khu vực chợ Bù Nho thuộc huyện Phú Riềng để bán cho một đối tượng tên E (không rõ nhân thân, lai lịch) để kiếm lời. Khi đi đến thôn 9, xã BT, huyện Bù Gia Mập thì bị Công an xã BT kết hợp với công an huyện Bù Gia Mập bắt quả tang, tổng khối lượng ma túy là 6,3516 gam. Như vậy, HĐXX có đủ căn cứ để xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bản thân bị cáo là người đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, bị cáo biết được việc mua bán trái phép chất ma tuý là hành vi vi phạm pháp luật, khi bị phát hiện sẽ bị pháp luật nghiêm trị. Tuy nhiên, vì động cơ tư lợi cá nhân cần tiền để tiêu xài và do bị nghiện, cần ma túy để sử dụng mà bị cáo đã bất chấp pháp luật đi vào con đường phạm tội. Cụ thể là, quá trình bị cáo ở nhà thì đối tượng tên E hỏi mua 1.500.000 đồng ma tuý, bị cáo đã dùng điện thoại liên hệ với đối tượng tên F để mua ma tuý để bán kiếm lời. Sau khi hẹn được địa điểm giao hàng, bị cáo đã điều khiển xe mô tô biển số giả 93C1-199.17 đến gặp đối tượng tên F để mua 1.500.000 đồng ma túy. Đồng thời, sau khi nhận được ma tuý và trên đường đi bán cho đối tượng tên E thì bị cáo bị bắt.

Từ những phân tích nêu trên, xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp vào chính sách quản lý đặc biệt của Nhà nước về các chất gây nghiện, hướng thần. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập truy tố bị cáo về tội “mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đồng thời, cần xét xử bị cáo một mức án thật nghiêm nhằm để răn đe, giáo dục bị cáo trong môi trường có sự quản lý của Nhà nước, để sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống, bị cáo biết tôn trọng pháp luật, tôn trọng sức khỏe của bản thân và cũng là để làm tốt công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung.

[5] Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần phải áp dụng khi lượng hình.

[6] Đối với đối tượng tên F đã bán ma túy cho bị cáo và đối tượng tên E là người mua ma tuý của bị cáo, bị cáo A không xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập không có căn cứ để điều tra xử lý, nên Hội đồng xét xử không đặt ra vấn đề xem xét trong vụ án này.

[7] Vật chứng vụ án:

Đối với 5,9233 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô mang biển số giả 93C1-199.17, số khung RLCE1S9A0CY024623, số máy 1S9A-024633 mà bị cáo dùng làm phương tiện đi mua ma tuý của đối tượng tên F là tài sản của anh Phạm Văn Tâm bị mất trộm vào tháng 11 năm 2018 tại huyện Phú Riềng. Do đó, ngày 01 tháng 9 năm 2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Bù Gia Mập đã bàn giao xe mô tô này cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Riềng để điều tra xử lý theo thẩm quyền nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét trong vụ án này.

Đối với điện thoại di động VIVO 1820 màu xanh là tài sản của bị cáo A sử dụng làm phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[8] Đối với lời phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Gia Mập tại phiên tòa, Hội đồng xét thấy có cơ sở nên được chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Lương Vũ A (tên gọi khác: Cún) phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38;50 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lương Vũ A 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 20 tháng 7 năm 2020.

3. Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 5,9233 gam ma tuý Methamphetamine hoàn lại sau giám định.

Tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với điện thoại di động VIVO 1820 màu xanh đã qua sử dụng của bị cáo Lương Vũ A.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 0008684; Quyển số 0174; Ký hiệu D47/2017 ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Gia Mập).

4. Về án phí hình sự sơ thấm:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo Lương Vũ A phải chịu 200.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Gia Mập - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về