Bản án 67/2020/HS-PT ngày 24/02/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 67/2020/HS-PT NGÀY 24/02/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 582/2019/TLPT-HS ngày 14 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Thị H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 36/2019/HS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị H; sinh năm: 1962, tại tỉnh Quảng Trị; Nơi cư trú: Thôn 16, xã HĐ, huyện KP, tỉnh Đắk Lắk; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn B (đã chết) và bà Hoàng Thị Th; Có chồng Nguyễn Văn H và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08-9-2017 đến nay.

Nhân thân: Ngày 08/9/2017 bị Cơ quan điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk bắt tạm giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 31/01/2019, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 16 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Hiện đang thi hành án tại Trại giam ĐT nhưng được trích xuất về thi hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Nông để phục vụ giải quyết vụ án này (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị H theo yêu cầu: Luật sư Vũ Thị Kim Th – Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk (có mặt) Bị án: Hồ Thị H1, sinh năm: 1959, tại tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: BP, xã ĐN, thị xã GN, tỉnh Đắk Nông. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Đắk Nông (có mặt) (Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Hữu L và những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án cấp phúc thẩm không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án liên quan đến hành vi phạm tội của Nguyễn Thị H được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2016 mặc dù không có khả năng xin được việc làm vào biên chế cơ quan nhà nước, vào trường dân tộc nội trú tỉnh Đắk Nông và xin đi học cử tuyển hệ chính quy Trường văn hóa III của Bộ Công an nhưng Hồ Thị H1, Nguyễn Thị H đưa ra Th tin gian dối không đúng sự thật để các bị hại tin tưởng giao tiền để các bị cáo chiếm đoạt chia nhau tiền sử dụng. Hồ Thị H1 và Nguyễn Thị H nhận tiền và hồ sơ xin đi học, của các gia đình cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Từ ngày 07/5/2012 đến tháng 8/2012 Hồ Thị H1 nhận của bà Lương Thị Th số tiền 175.000.000 đồng xin cho cháu Vi Thị Ng là con chị Th vào học trường văn hóa III, H1 đưa cho Nguyễn Thị H số tiền 175.000.000 đồng, ngày 17/02/2014 H đến nhà bà Th lấy thêm số tiền 20.000.000 đồng, không xin được việc cho cháu Ng, H1 và H cũng chưa trả được số tiền nào cho bà Th.

Trường hợp thứ 2: Từ đầu năm 2012 đến ngày 18/8/2018 Hồ Thị H1 nhận của bà Lê Thị Kim P 135.000.000 đồng xin cho Trịnh Thị Phương Ng1 (con chị P) vào học trường văn hóa III, H1 đã đưa 135.000.000 đồng cho Nguyễn Thị H. Ngày 9/5/2014 H đã trả cho H1 được 10.000.000 đồng, H1 trả cho P 8.000.000 đồng. Từ ngày 06/12/2013 đến ngày 30/10/2014 H1 tiếp tục nhận của bà P 03 lần tổng cộng số tiền 90.000.000 đồng, đưa cho L 70.000.000 đồng, để chuyển sang học hệ chính quy. Ngày 09/10/2015, L tự đóng tiền học phí cho cháu Ng1 hết 20.600.000 đồng và yêu cầu chuyển thêm 10.000.000 đồng, nên bà P nhờ Giáp Thị H chuyển vào số tài khoản 5200205424213.

Trường hợp thứ 3: Tháng 8/2012 chị L1 đưa cho H1 125.000.000 đồng để xin cho cháu Triệu Thị Mai Ph học hệ cử tuyển của trường văn hóa III, H1 đã đưa hết cho H số tiền 125.000.000 đồng, nhưng Ph chỉ được học hệ công lập tự chủ, phải đóng học phí, nên H1 đã trả cho chị L1 được 98.500.000 đồng còn 26.500.000 đồng.

Trường hợp thứ 4: Cuối năm 2011 đến đầu tháng 7/2012 bà Hoàng Thị X và anh Hoàng Văn Th1 đưa cho H1 140.000.000 đồng để xin cho Hoàng Văn Th1 vào làm Ủy ban nhân dân huyện KN. H1 đưa hết cho H, H đưa 50.000.000 đồng cho chị Nguyễn Thị X1, không xin được việc. H1 trả cho bà X 03 lần tiền là 28.000.000 đồng, X1 trả cho chị Xầm Thị Th được 50.000.000 đồng. Số tiền còn lại H1, H chưa trả.

Ngoài ra bà H2 còn nhờ H1 xin việc cho một số trường hợp nữa cụ thể:

Trường hợp thứ 5: Khoảng cuối tháng 10 đầu tháng 11/2012 bà Nguyễn Thị Q đưa cho bà Nguyễn Thị H2 72.500.000 đồng nhờ bà H2 đưa cho bà H1 xin việc cho con là Nguyễn Thế A vào bệnh viện đa khoa huyện Đăk Mil. H2 đưa H1 65.000.000 đồng, còn 7.500.000 đồng khi nào xin việc xong thì đưa hết. H1 đưa hết 60.000.000 đồng cho H, H đưa cho X1 60.000.000 đồng, Nguyễn Thế A không xin được vào biên chế chính thức, X1 đã trả đủ cho H 60.000.000 đồng. H tiêu xài cá nhân hết. Bà H2 đã trả 80.000.000 đồng cho bà Q.

Trường hợp thứ 6: Ngày 05/5/2014 và ngày 07/5/2014 Ông Nguyễn Cảnh L2 chuyển vào số tài khoản 5300215013426 cửo Nguyễn Thị H2 số tiền 100.000.000 đồng, Ngày 08/5/2014 H2 rút tiền và đưa cho H1 85.000.000 đồng để xin việc cho anh Nguyễn Cảnh D, con ông L2 vào làm Hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, H2 giữ lại 15.000.000 đồng khi nào xin việc xong thì H2 đưa hết cho H1, ngày 09/5/2014 H1 đưa cho H 50.000.000 đồng để xin việc cho D nhưng H không thực hiện được. H đã trả cho H1 15.000.000 đồng, H1 đã trả cho Hương 70.000.000 đồng, còn lại 15.000.000 đồng. Chị H2 đã trả cho ông L2 được 100.000.000 đồng.

Ngoài ra, cùng thời điểm xin việc cho anh Th1, H1 nhận 60.000.000 đồng của bà Hoàng Thị L3 để xin việc cho con bà L3 là anh Sầm Bình D1 vào làm việc tại Bệnh viện đa khoa huyện KN. Sau khi nhận tiền, H1 đưa hết 60.000.000đ cho H để H xin việc làm cho anh D1. H trình bày cũng giao hết số tiền đã nhận cho X1. X1 trình bày có nhận của H khoảng 45.000.000đ đến 50.000.000đ để liên hệ xin việc làm cho anh D1. Sau khoảng 02 năm làm việc không lương để chờ chỉ tiêu vào biên chế nhà nước nhưng không có, anh D1 nghỉ việc rồi đòi lại tiền, X1 trả lại tiền cho H rồi H trực tiếp trả lại đủ tiền cho bà L3.

Tháng 9/2012, chị Nguyễn Thị T nhờ chị Nguyễn Thị H2 xin cho em gái chị T tên là Nguyễn Thị Ng2 làm điều dưỡng tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Nông. Chị T có đưa tiền cho chị H2 nhưng không nhớ đưa bao nhiêu, cũng không có tài liệu thể hiện việc này. Ngày 12/9/2012, chị H2 đưa cho H1 72.500.000 đồng để xin việc cho chị Ng2. Sau khi nhận tiền, H1 đưa cho H 40.000.000 đồng để H lo việc. Chờ lâu chị Ng2 không có việc làm nên chị H2 đòi H1 trả lại tiền. Sau đó, H đưa cho H1 40.000.000 đồng, H1 bỏ thêm 32.500.000 đồng trả hết cho chị H2 72.500.000 đồng, chị H2 trả lại đủ tiền cho chị T.

Nội dung bản án sơ thẩm còn tóm tắt hành vi phạm tội của Hồ Thị H1 cùng Nguyễn Hữu L và Hà Văn Th nhận tiền và hồ sơ xin việc làm, xin đi học của các gia đình gồm 10 trường hợp khác.

Tổng cộng: Nguyễn Hữu L chiếm đoạt 1.267.000.000 đồng của 12 người, Hồ Thị H1 đã chiếm đoạt số tiền 2.083.000.000 đồng của 17 người, Nguyễn Thị H chiếm đoạt số tiền 719.000.000 đồng của 06 người.

Tại bản án hình sự sơ thẩm 36/2019/HS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2019 Tòa án nhân dân Tỉnh Đắc Nông đã QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 139; điểm b,p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 13 (mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiến đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt 16 năm tù của bản án số 11/2019/HSST ngày 31/10/2019 của Tòa án nhân dân Tỉnh Đắk Lắk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chúng của hai bản án là 29 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 08/9/2019.

Về trách nhiệm dân sự:

Hồ Thị H1 phải trả cho chị Lương Thị Th 175.000.000 đồng, bà Lê Thị Kim P 217.000.000 đồng; chị Hoàng Thị L1 26.500.000 đồng, bà Hoàng Thị X 62.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị H2 82.500.000 đồng (trong đó, 72.500.000.000 đồng của bà Q và 10.000.000 đồng của ông L2); ông Phạm Tiến S 40.000.000 đồng, chị Trần Thị L 70.000.000 đồng, anh Hoàng Văn T 80.000.000 đồng, anh Ngô Văn Tr 15.000.000 đồng, anh Linh Văn S 11.000.000 đồng, ông Lương Văn C 110.000.000 đồng, ông Vi Thanh T 70.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị M 160.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị T 270.000.000 đồng (trong đó bà Nguyễn Thị T trả cho ông Nguyễn Văn R 170.000.000 đồng).

Nguyễn Hữu L phải trả cho Hồ Thị H1 627.000.000 đồng, bà Lê Thị Kim P 10.000.000 đồng, chị Nguyễn Thị M 10.000.000 đồng, bà Luyện Thị S 500.000.000 đồng.

Nguyễn Thị H phải trả cho Hồ Thị H1 624.000.000 đồng, trả cho chị Lương Thị Th 20.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với bị cáo L, bị cáo H1 và xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/9/2019 bị cáo Nguyễn Thị H kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại phần số tiền xin việc giữa bị cáo và Hồ Thị H1.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị H khai nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã xét xử. Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với các lý do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ mức án tòa sơ thẩm xử là có phần nghiêm khắc. Bên cạnh đó bị cáo cho rằng việc xác định bị cáo chưa trả số tiền trên 600.000.000 đồng cho bị cáo H1 (là khoản tiền bị cáo H1 lấy của các bị hại đưa cho bị cáo) nên bản án sơ thẩm đã buộc bị cáo phải trả cho bị cáo H1 số tiền 624.000.000 đồng (tại mục 2.3) là chưa chính xác. Tại tòa án cấp sơ thẩm bị cáo H1 cũng thừa nhận các khoản tiền mà bị cáo H trực tiếp chuyển khoản cho người nhà bị cáo H1 là H trả cho bị cáo H1 nhưng cho rằng là trả các khoản nợ khác (Tuy nhiên không có căn cứ chứng minh cho phần khai này). Bị cáo H không công nhận có nợ H1 các khoản nợ khác. Do vậy bị cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sủa án sơ thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Phần tranh luận:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm xét xử vụ án cho rằng: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã có đủ căn cứ xác định, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị H 13 (mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiến đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 139; điểm b,p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là đúng người, đúng tội. Xét hành vi của bị cáo đã tạo lòng tin cho bị hại đưa tiền cho các bị cáo, các bị cáo đã lừa đảo 35 bị hại, chiếm đoạt số tiền hơn 4 tỷ, ngoài ra bị cáo H còn cấu kết với Nguyễn Thị Kim Th lừa đảo trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk với số tiền hơn 2 tỷ. Do đó, khung hình phạt sơ thẩm xử bị cáo là đúng, hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, coi thường pháp luật, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người dân, mức án sơ thẩm xử bị cáo là có căn cứ là không nặng, tổng hợp hình phạt Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xử, buộc bị cáo chấp hành mức hình phạt chung là 29 năm tù là có căn cứ. Đối với kháng cáo của bị cáo về phần trách nhiệm dân sự thì bị cáo không có tình tiết mới để chứng minh. Do đó, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo trình bày: Số tiền bị cáo chuyển cho H1 là tiền trả, tại trang số 17 đã ghi nhận bị cáo đã trả cho H1 số tiền 645.000.000 triệu đồng như vậy tại sao trong phần trách nhiệm dân sự buộc bị cáo tiếp tục trả cho H1 hơn 600.000.000 đồng. Bị cáo đề nghị hủy bản án điều tra lại từ đầu cho bị cáo. Bản án xử bị cáo 13 năm nhưng bị cáo không được đối chất với H1, mức án quá nặng so với hành vi của bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Về hành vi và tội danh luật sư không ý kiến. Tuy nhiên về khung hình phạt, cấp sơ thẩm xác định bị cáo chiếm đoạt 719.000.000 đồng của 06 người bị hại, nhưng tổng số tiền luật sư cộng lại chỉ có 705.000.000 đồng. Đối với trường hợp bà Hoàng Thị X bản án sơ thẩm nhận định 140.000.000 nhưng các bị cáo thừa nhận chỉ nhận 120.000.000 triệu đồng. Số tiền trong bản án sơ thẩm xác định là không chính xác Giấy chuyển tiền của bà H đã chuyển cho con bà H1 là 50.000.000 triệu đồng như nhận định của bản án sơ thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm luật sư cung cấp 2 biên lai khắc phục hậu quả của gia đình bị cáo trước phiên tòa phúc thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại số tiền trong bản án sơ thẩm. Bản án sơ thẩm ghi rõ “bị cáo H đã trả cho bị cáo H1”. Từ đó, xem xét chuyển đổi khung hình phạt và trách nhiệm dân sự cho bị cáo.

Trong phần đối đáp vị đại diện Viện kiểm sát cho rằng: Tất cả các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền chiếm đoạt, chứ không phải là chịu trách nhiệm trên số tiền các bị cáo chiếm đoạt. Các bị cáo đã câu kết để chiếm đoạt số tiền của bị hại, không thể nói là số tiền chiếm đoạt của từng bị cáo để xem xét. Đối với các số tiền mà bản án sơ thẩm đã nhận định là có căn cứ, còn việc các bị cáo chứng minh với nhau đã hoàn trả như thế nào thì Hội đồng xét xử sẽ xem xét.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trong khoảng thời gian từ cuối năm 2011 cho đến tháng 5/2014 Nguyễn Thị H đã cấu kết với Hồ Thị H1 và Th qua Nguyễn Thị H2 thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 5 người bị hại. Các thủ đoạn gian dối mà bị cáo H và H1 đã thực hiện là nói dối với một số người có nhu cầu cho con đi làm hoặc đi học tại các trường trung cấp, cao đẳng… về việc các bị cáo có khả năng xin được cho con họ việc làm hoặc nhập học như ý muốn nếu có tiền đưa cho bị cáo. Các bị hại tin và giao tiền cho H1 để H1 đưa tiền cho H lo xin học, xin làm cho con cháu bị hại. Cụ thể, Hồ Thị H1 đã trực tiếp nhận hồ sơ xin việc làm, xin đi học của 05 người (gồm chị Lương Thị Th, bà Lê Thị Kim P, gia đình chị Hoàng Thị L1, bà Hoàng Thị X, bà Hoàng Thị L3), nhận hồ sơ xin việc làm của 03 người Th qua chị Nguyễn Thị H2 (gồm chị Nguyễn Thị T, bà Nguyễn Thị Q, ông Nguyễn Cảnh L2) với tổng số tiền nhận của các bị hại là 865.000.000 đồng. H1 trình bày đưa cho H 880.000.000 đồng nhưng chỉ có tài liệu chứng minh 799.000.000 đồng. H trực tiếp nhận thêm 20.000.000 đồng của chị Lương Thị Th, tổng cộng H nhận là 819.000.000 đồng. Thực tế các bị cáo H1 và H không có các khả năng thực hiện công việc như đã thỏa thuận với các bị hại nên bị các bị hại đòi lại tiền đã nhận. Bị cáo H và H1 chỉ trả được một phần nhỏ trong tổng số đã chiếm đoạt nên các bị hại đã tố cáo hành vi phạm tội của các bị cáo.

[1] Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội về tội “Lừa đảo chiến đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 139; điểm b,p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 để xét xử bị cáo H là đúng người, đúng tội.

Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng vì lòng tham, tư lợi nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của nhiều người bị hại. Hành vi phạm tội của bị cáo nguy hiểm cho xã hội bởi, hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, mà còn gây ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức án như đã tuyên là không sai, mức hình phạt nhằm giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo H:

[2.1] Về phần bị cáo trả lại tài sản chiếm đoạt của bị hại Th qua bị cáo H1, Tòa sơ thẩm đã xác định như sau:

Trong nhận định bản án sơ thẩm tại mục số [7] đã chia tách cụ thể số tiền từng bị cáo phải bồi thường cho người bị hại. Nhưng trong phần quyết định, bản án sơ thẩm lại tuyên Hồ Thị H1 có nghĩa vụ trả tiền cho người bị hại (những người bị hại mà H1 nhận tiền trực tiếp) và bị cáo H phải trả lại cho H1 624.000.000 đồng.

Hội đồng xét xử xét thấy, bản án sơ thẩm xác định tổng số tiền H và H1 đã chiếm đoạt là 865.000.000 đồng. Trong đó, bị cáo H đã nhận tổng cộng 819.000.000 đồng (gồm 799.000.000 đồng nhận từ H1 và 20.000.000 đồng nhận từ chị Lương Thị Th). Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn nhận định: “Ghi nhận bị cáo Nguyễn Thị H đã trả cho bị cáo Hồ Thị H1 645.000.000 đồng”. Số tiền này khác với lời trình bày của H1 (đưa cho H 880.000.000 đồng), nhưng sau khi xét xử sơ thẩm H1 không có kháng cáo, cũng như không có ý kiến về nhận định trên của bản án sơ thẩm.

Đối với tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thì các bị cáo phải cùng chịu trách nhiệm hình sự trên số tiền chiếm đoạt, chịu trách nhiệm dân sự đối với số tiền đã nhận. Theo quyết định của bản án sơ thẩm thì H1 phải trả lại tiền cho các người bị hại, H phải trả lại cho H1. Căn cứ vào nhận định của bản án sơ thẩm thì số tiền H phải trả lại cho H1 là 799.000.000 đồng – 645.000.000 đồng (phần tiền bị cáo H đã trả cho bị cáo H1 theo nhận định tại trang số 17 của bản án sơ thẩm) = 154.000.000 đồng. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm lại tuyên buộc bị cáo H tiếp tục trả cho H1 624.000.000 đồng là không chính xác, gây bất lợi cho bị cáo. Do vậy, kháng cáo của bị cáo H về phần trách nhiệm dân sự là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận theo hướng buộc bị cáo H trả cho bị cáo H1 số tiền còn lại là 154.000.000 đồng.

[2.2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt:

Khi lượng hình cho bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã cố gắng khắc phục hậu quả cho người bị hại xử phạt bị cáo 13 năm tù là nằm trong mức khởi đầu của khung hình phạt.

Hội đồng xét xử nhận định: Quan điểm lượng hình phạt hiện nay đối với nhóm tội chiếm đoạt tài sản thì, một trong những căn cứ quan trọng để xem xét áp dụng mức hình phạt đối với người phạm tội khi xét xử là việc thu hồi tài sản cho các bị hại. Trong quá trình truy tố xét xử bị cáo tự nguyện trả tiền chiếm đoạt cho các bị hại là việc đã khắc được hậu quả nên, đây là các tình tiết cần ghi nhận để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi xem xét lượng hình tại phiên tòa các cấp. Hơn nữa, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp biên lai thu tiền thể hiện bị cáo đã nộp thêm 5.000.000 đồng để tiếp tục bồi thường cho các bị hại. Chứng cứ mới này thể hiện thái độ ăn năn, khắc phục hậu quả của bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt mới tại Tòa án cấp phúc thẩm nên cần xem xét cho bị cáo.

Ngoài ra, cần nhận định thêm trong cùng thời gian bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ở nhiều địa phương và đã bị xét xử cùng một tội danh bằng nhiều bản án, nếu tổng hợp hình phạt của tất cả các bản án thì mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Đúng ra trong quá trình tố tụng tại cấp sơ thẩm, bị cáo có thể yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng xem xét nhập các vụ án để cùng giải quyết nhưng bị cáo đã không yêu cầu. Trong phạm vi xét xử phúc thẩm, Hội đồng xét xử nêu để cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xem xét theo quy định pháp luật Từ những phân tích nhận định trên để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho bị cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận nội dung yêu cầu kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt.

[3] Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b, khoản 1 Điều 355, điểm c, khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015:

[1] Chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị H về việc xin giảm hình phạt. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2019/HS-ST ngày 28/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139; các điểm b, p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 12 (mười hai) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 16 (mười sáu) năm tù của Bản án số 11/2019/HSST ngày 31/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 28 (hai mươi tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù từ ngày 08/9/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[2] Chấp nhận một nội dung yêu cầu kháng cáo về trách nhiện dân sự của bị cáo Nguyễn Thị H. Sửa mục (2.3) phần quyết định của bản án sơ thẩm, được thay đổi thành nội dung như sau: Nguyễn Thị H phải trả cho Hồ Thị H1 154.000.000 đồng, trả cho chị Lương Thị Th 20.000.000 đồng.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2020/HS-PT ngày 24/02/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:67/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về