TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 67/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/08/2020 VỀ LY HÔN GIỮA ANH B VÀ CHỊ T
Ngày 24 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 219/2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2020 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Trần Quốc B, sinh năm: 1997.
Địa chỉ: Ấp L, xã H, huyện T, tỉnh Long An.
2. Bị đơn: Chị Huỳnh Thị Tú T, sinh năm: 1997.
Địa chỉ: Ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.
Tại phiên tòa sơ thẩm, anh B và chị T vắng mặt (anh B có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 07/6/2020, bản tự khai ngày 06/7/2020, đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 23/7/2020, nguyên đơn là anh Trần Quốc B trình bày:
Anh và chị Huỳnh Thị Tú T tự nguyện tìm hiểu, được gia đình hai bên tổ chức đám cưới và chung sống với nhau vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 27/12/2018.
Vợ chồng chung sống hạnh phúc được gần 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng ý kiến và quan điểm, thường hay cãi nhau dẫn đến ly thân đã 06 tháng. Hiện tại, tình cảm vợ chồng không còn nên anh xin ly hôn chị T.
Trong thời gian chung sống, anh và chị T không có con chung, tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Do bận công việc và ở xa nên anh không thể tham gia phiên tòa. Vì vậy, anh yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm đã thông báo và tổ chức các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị T đều vắng mặt không lý do.
Tại phiên tòa sơ thẩm, chị T vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Anh Trần Quốc B khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre giải quyết ly hôn với chị Huỳnh Thị Tú T. Chị T là bị đơn trong vụ án, cư trú tại ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
Anh B có yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh B.
Chị T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị T.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Quốc B và chị Huỳnh Thị Tú T tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre nên quan hệ hôn nhân của anh B và chị T được xem là hợp pháp. Tuy nhiên, theo lời xác nhận của cha ruột chị T là ông Huỳnh Văn Quốc thì sau khi cưới nhau khoảng một năm thì ông nghe nói vợ chồng anh B, chị T sống không hạnh phúc. Theo lời trình bày của anh B thì giữa anh B và chị T có mâu thuẫn trong cuộc sống do không hiểu ý nhau, thường xuyên cự cãi nên đã không sống chung với nhau khoảng 06 tháng.
Sau khi thụ lý yêu cầu khởi kiện của anh B, Tòa án đã tiến hành thông báo cho chị T tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mục đích hòa giải cho anh B và chị T đoàn tụ nhưng chị T vắng mặt, không có ý kiến.
Như vậy, tình trạng hôn nhân của anh B và chị T đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh B để giải quyết cho anh được ly hôn chị T.
[3] Về con chung: Anh B khai anh và chị T không có con chung.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Anh B khai anh và chị T không có tài sản chung, không có nợ chung nên Hội đồng xét xử ghi nhận, không xem xét. Nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh B phải chịu 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Quốc B. Anh Trần Quốc B được ly hôn chị Huỳnh Thị Tú T.
Về con chung: Anh Trần Quốc B và chị Huỳnh Thị Tú T không có con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Anh Trần Quốc B và chị Huỳnh Thị Tú T không có tài sản chung, không có nợ chung.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
Anh Trần Quốc B phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000407 ngày 17 tháng 6 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm. Anh B đã nộp đủ án phí.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm.
Bản án 67/2020/HNGĐ-ST ngày 24/08/2020 về ly hôn giữa anh B và chị T
Số hiệu: | 67/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về