Bản án 67/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 67/2019/HS-ST NGÀY 26/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 68/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 220/2019/QĐXXST-HS ngày 14/11/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn L, tên gọi khác: Không, sinh ngày 16 tháng 12 năm 1979, tại huyện S, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản Kiến L, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng Trọt; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Đình N và bà Nguyễn Thị Đ; có vợ và có 01 con; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân; năm 2010 cai nghiện bắt buộc tại Trung Tâm Cai nghiện tỉnh sơn La từ năm 2010 đến năm 2014, bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/8/2019 cho đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17 tháng 8 năm 2019 Nguyễn Văn L đi bộ từ bản Khá, xã Mường Lạn, huyện sốp Cộp đến cụm Co Hạ bản Khá, xã Mường lạn, huyện Sốp Cộp, Lan gặp và mua của một người dân tộc không quen biết được 34 viên nén là ma túy tổng hợp với số tiền 1.000.000 đồng, L đã sử dụng hết 13 viên. Sáng ngày 21/8/2019 L mang theo số ma túy còn lại và thuê xe ôm của Bùi Xuân H đến xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Khi H điều khiển xe chở L đến bản Tà Cọ, xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp thì bị tổ công tác của Công an huyện Sốp Cộp yêu cầu dừng xe kiểm tra, do sợ bị phát hiện nên L đã vứt gói ma túy tổng hợp gồm 21 viên xuống lòng đường. Sau khi đấu tranh biết không thể che giấu được hành vi vi phạm của mình, nên đã thừa nhận số ma túy trên là của bị cáo. Toàn bộ vật chứng được niêm phong theo quy định của pháp luật. L bị dẫn giải đến Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp để điều tra làm rõ.

Hồi 17 giờ ngày 21/8/2019 tại phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, thành lập hội đồng mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định, xác định khối lượng vật chứng thu giữ của L có khối lượng 2,13gam, đã trích 10 viên có khối lượng 1,02 gam làm mẫu giám định ký hiệu L1, còn lại 11 viên nén màu hồng có khối lượng 1,11 gam ký hiệu L2 được niêm phong kín là vật chứng lưu kho.

Tại bản kết luận giám định số 1417 ngày 26/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma túy; loại Methamphetamine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 1,02gam; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,13gam; loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 68/CT-VKSSC ngày 11 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về nguồn gốc ma túy, bị cáo khai mua của một người dân tộc không biết tên và địa chỉ, ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ khác chứng minh, nên cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp không có căn cứ để xử lý trong vụ án.

Về vật chứng:

Vật chứng còn lại 01(một) chiếc phong bì màu trắng niêm phong ban đầu cùng 01 mảnh nilon màu hồng; 01 túi ni lon màu xanh và 11 viên nén màu hồng có khối lượng 1,11 gam xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai nhận của bị cáo, lời khai của người làm chứng, vật chứng của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về chứng cứ xác định tội danh:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L khai nhận ngày 17 tháng 8 năm 2019 đã mua được 34 viên ma túy tổng hợp với số tiền 1.000.000 đồng của một người dân tộc không quen biết, đã sử dụng hết 13 viên, còn lại 21 viên, ngày 21/8/2019 bị cáo mang theo trên người và thuê Bùi Xuân H trở bằng xe máy đến xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã thì bị Công an huyện Sốp Cộp phát hiện bắt quả tang thu giữ số ma túy 21 viên có khối lượng 2,13 gam; Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 10 giờ 30 phút ngày 21 tháng 8 năm 2019; Biên bản cân tịnh vật chứng, kết luận giám định số 1417, ngày 16/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, vật chứng của vụ án là 2,13 gam ma túy, loại Methamphetamine.

Từ những căn cứ nêu trên, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét về tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an trên địa bàn, bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật, nhận thức được Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm răn đe giáo dục bị cáo và để phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Với các căn cứ nêu trên. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự và đưa ra mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội là có căn cứ đúng với quy định của pháp luật.

Phần tranh luận bị cáo nhất trí với tội danh và điều luật áp dụng, xin giảm nhẹ hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo phải bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự; xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, nên không áp dụng. [6]Về vật chứng: Vật chứng còn lại: 01(một) chiếc phong bì màu trắng niêm phong ban đầu cùng 01 mảnh nilon màu hồng và 01 mảnh ni lon màu xanh là vật không có giá trị sử dụng; 1,11 gam Methamphetamine là vật cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Tuyên quyền kháng cáo đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt Nguyễn Văn L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/8/2019.

Không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

2. Vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu để tiêu hủy 01 (Một) phong bì của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã niêm phong dán kín; mặt trước ghi:

Vật lưu kho vụ: Nguyễn Văn L, sinh năm 1979, bên trong phong bì có, 01(một) phong bì thư niêm phong ban đầu cùng 01(một) mảnh nilon màu hồng, 01 (một) mảnh ni lon màu xanh, và 1,11 gam ma túy, loại Methamphetamine; Toàn bộ vật chứng của vụ án theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12 tháng 11 năm 2019, giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện và Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Nguyễn Văn L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2019/HS-ST ngày 26/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:67/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về