TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 67/2018/HS-PT NGÀY 31/05/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 31/5/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên toà xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2018/HS-PT ngày 09/3/2018 đối với bị cáo Bùi Văn H và các bị cáo khác có kháng cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2017/HS-ST ngày 18/12/2017 của Toà án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Bùi Văn H ; Tên gọi khác: Không, sinh năm 1985.
Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm H, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Đánh cá biển; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông: Bùi Văn C và bà Đinh Thị L; Vợ Hồ Thị C; Con: Có 3 con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
2. Bùi Th ; Tên gọi khác: Không, sinh năm 1992.
Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm 6, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Đánh cá biển; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Con ông: Bùi Ch và bà Tô Thị T; có vợ: Hồ Thị Mỹ L; Con: Có 1 con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
3. Phạm Khắc Đ ; Tên gọi khác: Không, sinh năm 1984.
Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm H, xã Quỳnh N, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Đánh cá biển; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Phạm K Nuôi và bà Nguyễn Thị ; Có vợ: Hồ Thị N; Con: Có 2 con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
4. Tô Duy T ; Tên gọi khác: Không, sinh năm 1995.
Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm N, xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Đánh cá biển; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Con ông: Tô D và bà Hồ Thị L; Vợ, con: chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Ngô Đình Quang. Văn phòng Luật sư Minh Diền. Đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An. Có mặt.
Ngoài ra còn có 01 bị cáo là Tô Duy T không kháng cáo. Vụ án không có kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Các bị cáo đã có hành vi tham gia đánh bạc bằng hình thức ghi số lô, số đề, cá độ bóng đá qua tin nhắn điện thoại. Vụ án có 2 nhóm đánh bạc. Cụ thể như sau:
Nhóm thứ nhất do bị cáo Bùi Văn H làm chủ.
Bị cáo H sau thời gian đánh cá thì làm chủ lô, đề và cá độ bóng đá, H dùng điện thoại của mình có số thuê bao 0987346301 để nhắn tin, người nào đánh thì nhắn tin lại cho H, chấp nhận thì H nhắn lại: " Oke" , không thì : " Hủy". Sau đó H nhắn tin sang cho Hồ Quang số thuê bao 01628649767 để hưởng lợi nhuận ( nhưng không có cơ sở xác định). Trong ngày 09/8/2017 H đã đánh bạc với những người sau:
Vào khoảng 15 giờ 23 phút số điện thoại 01684253880 ( theo H khai của anh Tùng) nhắn tin vào máy H mua số lô 15 với 100 điểm, tương ứng số tiền 2.300.000đ, số đề 15 với 200.000đ được H chấp nhận. Sau khi có kết qủa xổ số thì Tùng trúng thưởng tương ứng được nhận 8.000.000đ của H. Lúc 23g giờ 20 phút cùng ngày Công an huyện Q kiểm tra, bắt giữ nên hai bên chưa kịp thanh toán.
Đến 17h15 cùng ngày bị cáo Phạm Khắc Đ dùng số ĐT 0986562274 nhắn tin vào máy bị cáo H mua số lô 75 và 02 mỗi số 50 điểm tương ứng với 2.300.000đ được H chấp nhận. Đ trúng thưởng với số tiền được nhận là 8.000.000đ. Hai bên chưa kịp thanh toán cho nhau.
Đến 17h 43 cùng ngày số ĐT 0962432826 ( theo H khai của anh H) nhắn tin mua số lô 73,46 mỗi số 25 điểm tương ứng số tiền 1.150.000đ số xiên 2 với 400.000đ được H chấp nhận. Hai bên chưa kịp thanh toán cho nhau.
Đến 20h34 cùng ngày H sử dụng điện thoại của mình soạn các kèo bóng đá quốc tế gửi đến các số điện thoại của bị cáo Tô Duy T, anh Tô Duy Đ và anh Trương Văn Đ. Được bị cáo T nhắn lại bắt tài đội Vononezh, đội Tyumen, đội Vaa sa mỗi đội 3.000.000đ, bắt tài đội Vlovennia 2.000.000đ, bắt sửu đội Varamo 3.000.000đ được H chấp nhận. Khi bị phát hiện bắt giữ thì mới có trận Uzbekistan kết thúc và T thắng H 2.700.000đ.
Cùng ngày T nhắn tin được H chấp nhận mua các số lô 53,23 mỗi số 50 điểm tương ứng 2.300.000đ. số tiền thắng, thua hai bên chưa thanh toán cho nhau.
Được anh Tô Duy Đ nhắn lại bắt tài đội Vaa sa 2.000.000đ, bắt cả trận đội Vlovennia 2.000.000đ. Các trận đấu chưa kết thúc nên hai bên chưa thanh toán.
Được anh Đ nhắn lại: Bắt đội Vaa sa cả trận 1.000.000đ. Trận đấu chưa kết thúc, hai bên chưa thanh toán.
Nhóm thứ hai do bị cáo Bùi Th làm chủ:
Bị cáo Th dùng số ĐT 01649860658 để liên lạc, theo bị cáo khai sau khi có kết quả sẽ gửi cho số ĐT 01682269068 của anh D để hưởng hoa hồng nhưng không có cơ sở chứng minh.
Vào 16 giờ ngày 09/8/2017 anh Hồ Hữu Q dùng ĐT số 0966560765 mua số lô 94 x 30 điểm, số lô 80, 47 mỗi số 10 điểm, tổng 50 điểm = 1.150.000đ, số đề 17 vối số tiền 50.0000đ.
17h13 cùng ngày anh Đinh Trọng M dùng ĐT số 0165645954 mua số lô 01,28,29 mỗi số 50 điểm = 3.450.000đ.
17h27 bị cáo Tô Duy T dùng ĐT số 01673516332 mua số lô 81,82 mỗi số 200 điểm tương ứng 9.200.000đ. Hai bên chưa thanh toán tiền.
Quy ước hình thức đánh bạc như sau: Căn cứ vào kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc công bố hàng ngày vào lúc 18h15, các bên dùng 2 số cuối của giải để chơi lô, đề. Người ghi mua các số người mua tự chọn, nộp phơi cho chủ đề để hưởng hoa hồng hoặc là chủ đề ôm luôn. Tỷ lệ thắng thua : Chơi đề 1/70, chơi lô 1 điểm/80.000đ. Đánh xiên theo cặp số (xiên 2 gấp 10 lần, xiên 3 gấp 40 lần vv…)
Cá độ bóng đá; Căn cứ các trận diễn ra, trên mạng Intenet ra kèo, người chơi đánh trận, đánh tài ( cửa trên), đánh sửu ( cửa dưới), căn cứ hiệu số bàn thắng để tính thắng thua theo tỷ lệ mà kèo đã quy định.
Bản án sơ thẩm xác định: Vào ngày 09/8/2017 bị cáo H làm chủ lô, đề, cá độ với số tiền: 24.650.000đ. Ngoài ra H còn cá độ, đánh lô, đề với các đối tượng khác nhưng số tiền dưới mức 5.000.000đ.
Bị cáo T chủ lô, đề với số tiền 13.850.000đ. Bị cáo Đ đánh bạc 10.300.000đ, bị cáo T đánh bạc 9.200.000đ, bị cáo T đánh bạc 5.700.000đ.
Với nội dung trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2017/HSST ngày 18/12/2017 của Toà án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã quyết định: Tuyên bố:
Các bị cáo Bùi Văn H, Bùi Th, Phạm Khắc Đ, Tô Duy T, Tô Duy T đã phạm tội: “ Đánh bạc”,
Áp dụng: Khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 điều 48, điều 53 Bộ luật Hình sự. Xử phạt : Bùi Văn H 12 ( Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46: Điều 53 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bùi Th 6 ( sáu ) tháng tù: Phạm Khắc Đ 5 ( Năm ) tháng tù, Tô Duy T 05 ( năm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án .
Áp dụng: Khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46: Điều 53 và điều 60 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Tô Duy T 03 ( ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng.
Áp dụng: Khoản 3 Điều 248; Áp dụng hình phạt bổ sung: Phạt tiền các bị cáo mỗi bị cáo là: 5.000.000đ ( Năm triệu đồng).
Ngoài ra còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên quyền kháng cáo. Ngày 20/12/2017, bị cáo Bùi Văn H có Đơn kháng cáo. Ngày 22/12/2017, bị cáo Phạm Khắc Đ có Đơn kháng
Ngày 25/12/2017 bị cáo Bùi Th và Tô Duy T có Đơn kháng cáo
Các đơn kháng cáo có cùng nội dung : Do kém hiểu biết pháp luật, do bạn bè rủ rê, muốn kiếm thêm thu nhập nên phạm tội. Hoàn cảnh gia đình khó khăn nên xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm; Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Về thủ tục: Kháng cáo hợp lệ nên đề nghị chấp nhận.
Về nội dung: Các bị cáo H, Th, Đ tại phiên tòa phúc thẩm có thêm các tình tiết giảm nhẹ ( H có công giúp người bị nạn, bị cáo Th có bố phục vụ quân đội, bị cáo Đ bố được tăng thưởng huân chương) quy định tại khoản 2 điều 46 BLHS nên chấp nhận một phần kháng cáo. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo với các mức: Bị cáo H 9 tháng tù, bị cáo T và bị cáo Đ 3 tháng tù . Không chấp nhận nội dung kháng cáo của các bị cáo Tuấn: giữ nguyên mức 5 tháng tù
Các bị cáo không tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát.
Luật sư bào chữa cho bị cáo T đề nghị: Hình phạt áp dụng với bị cáo Tuấn, quá nặng, quá nghiêm, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, do bị rủ rê, ăn năn hối cải, là lao động chính trong gia đình, có em bị tàn tật nên không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mà đề nghị cho hưởng án treo.
Các bị cáo nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức hình phạt và xin hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo: Bùi Văn H, Bùi Th, Phạm Khắc Đ, Tô Duy T được làm trong thời hạn kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An theo đúng quy định tại khoản 1, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự về thời gian, chủ thể nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. Về nội dung kháng cáo thuộc phạm vi kháng cáo theo quy định. Vì vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ để xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đều khai và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung phản ánh của Bản án sơ thẩm. Phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình Điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với vật chứng thu giữ của vụ án, biên bản phạm tội quả tang có đủ cơ sở kết luận:
Vào ngày 09/8/2017 bị cáo H làm chủ lô, đề, cá độ bóng đá với người khác số tiền phạm tội là: 24.650.000đ. Ngoài ra H còn cá độ, đánh lô, đề với các đối tượng khác nhưng số tiền dưới mức 5.000.000đ.
Bị cáo Th làm chủ lô, đề với số tiền phạm tội là : 13.850.000đ.
Bị cáo Đ đánh bạc ( mua số lô) với số tiền phạm tội: 10.300.000đ.
Bị cáo T đánh bạc ( mua số lô) với số tiền phạm tội: 9.200.000đ.
Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội: “ Đánh bạc” như quyết định của
Bản án sơ thẩm là đúng người, đúng tội.
Đánh bạc là một tệ nạn xã hội, là nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn gia đình, là con đường dẫn đến các tội phạm khác, làm ảnh hưởng an ninh, chính trị, trật tự an tòan xã hội tại địa phương, làm cho bao gia đình tan nát, suy sụp kinh tế, nợ nần chồng chất nên cần phải xét xử nghiêm để răn đe bị cáo, phòng ngừa chung.
[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy rằng:
Đối với kháng cáo của bị cáo Bùi Văn H xin giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo. Xét thấy bị cáo H là người tổ chức, cầm đầu, phạm tội nhiều lần. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất mức độ, vai trò chính của bị cáo trong vụ án và xử phạt bị cáo 12 tháng tù về tội “ Đánh bạc” là đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tình tiết mới là đã cứu, giúp người trong khi đi biển đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 vì vậy có căn cứ để chấp nhận một phần nội dung kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nhưng đánh giá tính chất vụ án và vai trò của bị cáo thì không cho bị cáo hưởng án treo.
Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Bùi Th thấy: Xét thấy bị cáo Thêm là người tổ chức, cầm đầu. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất mức độ, vai trò chính của bị cáo trong vụ án và xử phạt bị cáo 6 tháng tù về tội “ Đánh bạc” là đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo xuất trình giấy lĩnh trợ cấp 1 lần của bố bị cáo có thời gian phục vụ quân đội nhưng đây không phải là tình tiết giảm nhẹ, mức án 6 tháng tù đã phù hợp vì vậy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo.
Đối với nội dung kháng cáo của bị cáo Phạm Khắc Đ. Xét thấy bị cáo là người tham gia đánh bạc, số tiền đánh bạc là tiền thắng, trúng số được thưởng nhưng chưa thanh toán. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 5 tháng tù là đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tình tiết mới là bố bị cáo ( ông Phạm Khắc N) có thời gian tham gia kháng chiến được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng ba, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999 vì vậy có căn cứ để chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị cáo. Bị cáo Đông có nhân thân tốt, nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, việc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là không cần thiết mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục là cũng đủ nghiêm, thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật đối người phạm tội.
Đối với bị cáo T tại phiên tòa phúc thẩm không xuất trình tình tiết giảm nhẹ gì mới, cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình hình chính trị tại địa phương và áp dụng mức án phù hợp vì vậy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo. Luật sư của bị cáo bào chữa đề nghị : Bị cáo phạm tội do bị rủ rê, bị cáo là lao động chính, em bị tàn tật nên đề nghị cho hưởng án treo nhưng chưa là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định. Vì vậy không có cơ sở để xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
[4]. Trong vụ án này, có bị cáo T không kháng cáo, với mức hình phạt đã phù hợp nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không xem xét.
[5]. Về án phí Hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Bùi Th và Tô Duy T kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm .
Các bị cáo Bùi H và Phạm Khắc Đ kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm .
[6]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét và có hiệu lực.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356; các điểm c, e khoản 1 Điều 357 Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Bùi Th và Tô Duy T. Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm;
Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Bùi Huy và Phạm Khắc Đ. Sửa án sơ thẩm: Giảm mức hình phạt tù cho bị cáo H và cho bị cáo Đ được hưởng án treo;
Tuyên bố:
Các bị cáo Bùi Văn H, Bùi Th, Phạm Khắc Đ, Tô Duy T đã phạm tội: “ Đánh bạc”,
Áp dụng: Khoản 1 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 điều 48, điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt : Bị cáo Bùi Văn H 09 ( Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành.
Áp dụng: Khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46: Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Th 06 ( Sáu ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án .
Áp dụng: Khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46: Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt: Bị cáo Tô Duy T 05 ( Năm ) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án .
Áp dụng: Khoản 1 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Khắc Đ 05 ( Năm ) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là: 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Phạm Khắc Đ cho UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Bùi Th và Tô Duy T: mỗi bị cáo phải chịu 200.000 ( Hai trăm ngàn ) đồng.
Các bị cáo Bùi Văn H và Phạm Khắc Đ không phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 67/2018/HS-PT ngày 31/05/2018 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 67/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về