Bản án 67/2018/HNGĐ-ST ngày 22/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 67/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 299/2018/TLST-HNGĐ ngày 08/8/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2018/QĐXXST–HNGĐ ngày 23/10/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1997 (Có mặt). Địa chỉ: Số 6, ngõ 4, tổ H, phường X, thành phố B.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1995 (Có mặt). Địa chỉ: Số 20, ngõ 30/4. Đường L, Phường T, thành phố B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thùy D trình bày:

Chị và anh Nguyễn Ngọc T kết hôn ngày 04 tháng 8 năm 2017, đăng ký tại UBND phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Anh chị kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau ngay cùng với gia đình nhà anh Nguyễn Ngọc T.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Khoảng 3 tháng sau khi kết hôn thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Nguyễn Ngọc T ngoại tình và từ đó vợ chồng thường xuyên cãi vã, sô xát nhau, anh Nguyễn Ngọc T nhiều lần đánh đập chị. Ngoài ra, trong cuộc sống, anh Toàn cũng không quan tâm gì đến con cái, cuộc sống vợ chồng luôn căng thẳng, không hạnh phúc. Đến tháng 7/2018, khi chị không thể chịu đựng thêm nữa thì chị đã quyết định về nhà mẹ đẻ ở. Vợ chồng ly thân từ thời điểm đó đến nay.

Nay chị xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh Nguyễn Ngọc T nữa. Chị đề nghị Tòa án cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc T.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Ngọc T có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Quang Bảo, sinh ngày 17/11/2017, hiện tại con chung đang ở với chị. Nếu ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bảo. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, chị và anh Nguyễn Ngọc T tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn là anh Nguyễn Ngọc T trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Thuỳ D kết hôn ngày 04 tháng 8 năm 2017, đăng ký tại UBND phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang. Anh chị kết hôn là hoàn toàn tự nguyện và được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn, đã được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo nghi lễ truyền thống. Sau khi kết hôn anh chị về chung sống với nhau ngay.

Trong cuộc sống vợ chồng, giữa vợ chồng cũng có đôi lần mâu thuẫn, dẫn đến sô sát. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng còn trẻ, chưa suy nghĩ thấu đáo mọi việc, từ đó dẫn đến vợ chồng bất hòa.

Nhưng hiện tại, anh thấy cuộc sống vợ chồng vẫn bình thường. Nay anh xác định vẫn còn tình cảm vợ chồng với chị Nguyễn Thị Thuỳ D. Anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thuỳ D. Anh mong Tòa án cho vợ chồng anh thêm thời gian để hòa giải, vợ chồng đoàn tụ nuôi dậy con cái. Trường hợp chị Nguyễn Thị Thuỳ D nhất quyết ly hôn thì anh đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn Thị Thuỳ D có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Quang Bảo, sinh ngày 17/11/2017, hiện tại con chung đang ở với mẹ. Nếu ly hôn, anh đồng ý để chị Nguyễn Thị Thuỳ D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bảo. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, anh và chị Nguyễn Thị Thuỳ D tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Anh xác nhận vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tài liệu chứng cứ thu thập được:

- Biên bản xác minh ngày 18/10/2018, đại diện chính quyền địa phương tại tổ dân phố 1B, phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang cung cấp: Anh Nguyễn Ngọc T và chị Nguyễn Thị Thuỳ D là vợ chồng, hiện vẫn đăng ký hộ khẩu tại địa phương. Quá trình chung sống tại địa phương, thì giữa anh chị có xảy ra mâu thuẫn gì không thì địa phương không nắm được. Địa phương chỉ biết hiện tại anh chị đã ly thân, chị Nguyễn Thị Thuỳ D và con chung đã không còn sinh sống ở địa phương cùng anh Nguyễn Ngọc T nữa.

Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần nhưng anh Toàn đều vắng mặt.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Dung và anh Toàn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án trong quá trình giải quyết vụ án tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự như không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án, không tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa ngày 12/11/2018.

- Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, xử:

+ Chị Nguyễn Thị Thùy Dung được ly hôn anh Nguyễn Ngọc T.

+ Về con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Quang Bảo, sinh ngày 17/11/2017 cho chị Dung trực tiếp nuôi dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con, không đặt ra xem xét giải quyết.

+ Về án phí: Chị Dung phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thuỳ D thì thấy đây là quan hệ tranh chấp hôn nhân gia đình về ly hôn, nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang theo khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị Thuỳ D và anh Nguyễn Ngọc T kết hôn ngày 04 tháng 8 năm 2017 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, được tự do tìm hiểu trước khi kết hôn và đăng ký kết hôn tại UBND phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên xác định là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, vợ chồng đã nảy sinh mâu thuẫn và xảy ra sô sát. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, bất đồng ý kiến. Hiện tại vợ chồng đã ly thân, không còn chung sống cùng nhau.

Mặc dù anh Nguyễn Ngọc T không đồng ý ly hôn nhưng xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hơn nữa, chị Nguyễn Thị Thuỳ D cũng xác nhận không còn tình cảm vợ chồng. Do vậy, cần áp dụng Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, để xử cho chị Nguyễn Thị Thuỳ D được ly hôn anh Nguyễn Ngọc T.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thuỳ D và anh Nguyễn Ngọc T có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Quang Bảo, sinh ngày 17/11/2017.

Xét thấy, cháu Bảo còn quá nhỏ chưa đủ ba tuổi, hiện rất cần sự nuôi dưỡng của người mẹ. Hơn nữa, trường hợp phải ly hôn thì anh Nguyễn Ngọc T cũng đồng ý cho chị Nguyễn Thị Thuỳ D trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Việc giao con chung cho chị Dung trực tiếp nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp theo quy định của pháp luật cũng như nguyện vọng của các đương sự theo Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội chị Nguyễn Thị Thuỳ D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56; Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thùy Dung được ly hôn anh Nguyễn Ngọc T.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Ngọc Quang Bảo, sinh ngày 17/11/2017 cho chị Nguyễn Thị Thuỳ D trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh Nguyễn Ngọc T có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thuỳ D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang theo biên lai số AA/2012/06910 ngày 07/8/2018. Xác nhận chị Nguyễn Thị Thuỳ D đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 67/2018/HNGĐ-ST ngày 22/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:67/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về