Bản án 66/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 66/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 47/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 140/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn K, sinh ngày 17 tháng 6 năm 1980 tại Hải Phòng; nợi cư trú: Số 33/147 Đ, phường Đ, quận L, Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phú B (đã chết) và bà Nguyễn Thị T; tiền án: Án số 101/2017/HSST ngày 11/7/2017, Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; án số 117 ngày 04/9/2019 Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tiền sự: Không; nhân thân: Án số 448/STHS ngày 28/9/1998, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 06 năm tù về tội Giết người (đã được xóa án tích); bị bắt tạm giữ ngày 26/11/2020, tạm giam ngày 30/11/2020; có mặt.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị Tuyết L, sinh năm 1968; đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 12 cụm 02 Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số nhà 9 liền kề 1 Dự án A phường Đ, quận L, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 00giờ 30 phút ngày 26/11/2020, Nguyễn K đi xe ôm từ khu vực đường L đến ngõ 147 Đ, phường Đông Hải, quận Lê Chân, Hải Phòng. Khi đi qua nhà số 9 liền kề 1 khu dự án A thì Khánh phát hiện thấy trước cửa nhà có dựng một chiếc xe máy Honda SCR biển kiểm soát: 16N3-3064 của bà Nguyễn Thị Tuyết L nên Khánh nảy sinh ý định trộm cắp. Khánh xuống xe rồi đi quay lại, quan sát xung quanh không thấy ai nên Khánh đã đến gần dắt chiếc xe về hướng ngõ 147 Đ, đi được khoảng 10m thì anh Phạm Thanh T, sinh năm 1975, trú tại: Số 16D1 Đổng Quốc Bình, quận Ngô Quyền, Hải Phòng là bảo vệ phát hiện hô hoán. Khánh để xe lại và xin tha thứ nhưng anh T không đồng ý. Khánh liền bỏ chạy về hướng ngã tư Quán Mau và vứt lại chiếc mũ và áo khoác ngoài đang mặc xuống đường. Khi đến khu vực ngõ 56 Đ thì bị lực lượng Công an phường Đông Hải đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát phối hợp cùng anh T bắt giữ đưa về trụ sở lập biên bản.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn K khai nhận: Vào khoảng 00 giờ 30 phút ngày 26/11/2020, Khánh phát hiện thấy có một chiếc xe máy Honda SCR biển kiểm soát: 16N3-3064 dựng ở trước cửa nhà số 9 liền kề 1 khu dự án A nên đã nảy sinh ý định trộm cắp. Khánh T lại gần, dắt xe về hướng ngõ 147 Đ, khi đi được khoảng 10m thì bị phát hiện, Khánh bỏ chạy đến khu vực ngõ 56 Đ thì bị bắt giữ.

Bị hại bà Nguyễn Thị Tuyết L khai: Sáng ngày 25/11/2020 bà có dựng chiếc xe máy tại vỉa hè trước cửa nhà số 9 liền kề 1 khu dự án A. Đến khoảng 01 giờ 00 phút ngày 26/11/2020, bà nghe thấy Tg hô hoán, bà mở cửa nhà thì thấy chiếc xe của mình đã bị dịch chuyển xuống dưới lòng đường, sau đó bà được công an phường Đông Hải thông báo đã bắt được đối tượng trộm cắp xe và tạm giữ xe của bà để phục vụ cho việc điều tra. Hiện bà đã nhận lại chiếc xe trên nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại Kết luận định giá tài sản số 118/KL-HĐĐGTS ngày 26/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản quận Lê Chân kết luận: Chiếc xe máy Honda SCR biển kiểm soát 16N3-3064 có giá trị còn lại là 7.000.000đồng.

Tại Cáo Trạng số 57/CT-VKSLC ngày 19 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Nguyễn K về tội Trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn K mức án từ 36 đến 42 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 áo len dài tay màu đen, 01 quần bò dài tối màu thu giữ của bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, nội dung cáo trạng, vật chứng thu giữ, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 26/11/2020, tại khu vực trước cửa số 9 liền kề 1 Dự án A, phường Đông Hải, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, bị cáo Nguyễn K đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SCR, biển kiểm soát 16N3-3064 trị giá 7.000.000đ (bảy triệu đồng) của bà Nguyễn Thị Tuyết L. Do vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn K phạm tội Trộm cắp tài sản vi phạm Điều 173 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết định khung:

[3] Mặc dù tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị 7.000.000đồng nhưng do bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội. Hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo đã bất chấp pháp luật, lợi dụng sơ hở của người quản lý tài sản để chiếm đoạt. Nhân thân bị cáo có 03 tiền án, trong đó có 01 tiền án đã được xóa án tích, 02 tiền án là tình tiết định khung, điều đó cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém, bị cáo không lấy đó làm bài học để cải tạo rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xét xử bị cáo một mức án nghiêm, bắt cách ly xã hội một một thời gian đề cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình nên khi lượng hình cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự:

[6] Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về xử lý vật chứng:

[7] Đối với 01 áo len dài tay màu đen, 01 quần bò dài tối màu thu giữ của bị cáo, xét là vật không còn giá trị sử dụng nên căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu huỷ.

- Về các vấn đề khác:

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn K 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 26 tháng 11 năm 2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 01 áo len dài tay cổ tim, mặt trước có chữ PUMA màu đen, 01 quần bò dài tối màu đã thu giữ của bị cáo.

(Theo đúng Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20 tháng 4 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Buộc bị cáo phải nộp 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2021/HS-ST ngày 16/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:66/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về