TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 66/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH Đ
Ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hải Hậu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 45/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2021 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1992. Địa chỉ: Xóm 11, xã HA, huyện HH, tỉnh Nam Định.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Bà Phạm Thị N- Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Minh Đức- Đoàn Luật sư tỉnh Nam Định. Địa chỉ: Tổ dân phố số 4, thị trấn Yên Định, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
- Bị đơn: Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1982. Địa chỉ: Xóm 11, xã HA, huyện HH, tỉnh Nam Định.
(Bà Ninh có mặt; chị H, anh Đ vắng mặt có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 07-3-2021 và quá trình tham gia tố tụng tại Toà án, nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H và anh Hoàng Văn Đ đăng ký kết hôn ngày 19-4-2013 tại Ủy ban nhân dân xã HA, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn. Quá trình chung sống, vợ cH đã có một con chung nhưng do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau nên thường xảy ra mâu thuẫn, va chạm nhau trong sinh hoạt hàng ngày. Tháng 02 năm 2017, do mâu thuẫn vợ cH trầm trọng nên chị H đã cùng con chung về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ; vợ cH sống ly thân, chấm dứt mọi quan hệ, tình cảm, trách nhiệm với nhau từ đó cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ cH không còn nên chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đ.
Về con chung: Vợ cH có một con chung là cháu Hoàng Gia Bảo, sinh ngày 14-6-2013, hiện đang ở cùng anh Đ. Khi ly hôn, chị H nhất trí giao anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng con chung; chị H nhận cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/tháng, kể từ tháng 4 năm 2021 theo yêu cầu của anh Đ.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H xác nhận vợ cH không có tài sản chung, không cùng vay nợ của cá nhân, cơ quan, tổ chức nào nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 15-3-2021, bị đơn anh Hoàng Văn Đ có lời khai phù hợp với lời khai của chị Vũ Thị H về thời gian kết hôn. Về nguyên nhân mâu thuẫn, theo anh Đ là do từ năm 2016, anh Đ ốm yếu không làm ra kinh tế nên chị H coi thường, không tôn trọng anh. Năm 2016, chị H tự ý bỏ nhà đi nên vợ cH sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay chị H làm đơn xin ly hôn, xác định tình cảm vợ cH không còn nên anh Đ nhất trí thuận tình ly hôn.
Về con chung: Anh Đ xác nhận vợ cH có 01 con chung như chị H trình bày. Khi ly hôn, anh Đ có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung và yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/1 tháng, kể từ tháng 4 năm 2021.
Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Anh Đ xác nhận vợ cH không có tài sản chung, không có nghĩa vụ chung về tài sản nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị H, anh Đ xin vắng mặt. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn ý kiến: Đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn giữa chị H và anh Đ; về con chung: Nhất trí giao con chung là cháu Hoàng Gia Bảo, sinh ngày 14-6-2013 cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng, chị H cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đ/ tháng kể từ tháng 4 năm 2021; không đề nghị giải quyết tài sản chung cũng như nghĩa vụ chung về tài sản.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Do nguyên đơn, bị đơn đều xin xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H, anh Đ là phù hợp.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ vợ chồng giữa chị Vũ Thị H và anh Hoàng Văn Đ là quan hệ hôn nhân hợp pháp vì được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, được Uỷ ban nhân dân xã HA, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đăng ký kết hôn ngày 19-4-2013. Quá trình chung sống, do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau, không tôn trọng lẫn nhau nên vợ cH mâu thuẫn. Chị H, anh Đ sống ly thân đến nay đã được khoảng 04 năm. Nay chị H, anh Đ đều xác định tình cảm vợ cH thực sự không còn, chị H xin được ly hôn, anh Đ nhất trí ly hôn theo yêu cầu của chị H.
[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H, anh Đ thì thấy: Mâu thuẫn vợ cH giữa chị H và anh Đ là sự việc có thật, được chị H, anh Đ thừa nhận, chính quyền địa phương xác nhận. Chị H, anh Đ thực tế đã ly thân, chấm dứt quan hệ tình cảm đến nay đã được khoảng 04 năm trở lại đây. Quá trình giải quyết vụ án, chị H, anh Đ đều đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải và nhất trí ly hôn. Xét cuộc sống chung giữa chị H, anh Đ đã chấm dứt được một thời gian dài, tình cảm vợ cH thực sự không còn, mục đích hôn nhân không Đ được nên cần chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của chị H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Về con chung: Chị H, anh Đ đều xác nhận vợ cH có 01 con chung là cháu Hoàng Gia Bảo, sinh ngày 04-6-2013. Hiện nay con chung đang ở với anh Đ. Khi ly hôn, chị H, anh Đ nhất trí giao con chung cho anh Đ tiếp tục nuôi dưỡng. Tại Biên bản ghi lời khai, cháu Bảo có nguyện được ở với anh Đ. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy giao con chung cho anh Đ nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị H, anh Đ thống nhất trình bày, chị H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Đ 1.000.000đ/tháng kể từ tháng 4/2021. Căn cứ các Điều 110, 116, 117, 118 Luật Hôn nhân và gia đình, buộc chị Vũ Thị H phải cấp dưỡng nuôi con đối với cháu Hoàng Gia Bảo là 1.000.000đ/tháng kể từ tháng 4/2021 cho đến khi cháu Bảo thành niên, lao động tự lập hoặc có tài sản nuôi mình là phù hợp.
[5] Về tài sản và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H và anh Đ đều xác nhận vợ cH không có tài sản chung, không phải thực hiện nghĩa vụ chung về tài sản, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[6] Về án phí: Chị Vũ Thị H phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83, 110, 116, 117, 118 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị H và anh Hoàng Văn Đ.
2. Về con chung: Giao cháu Hoàng Gia Bảo, sinh ngày 04-6-2013 cho anh Hoàng Văn Đ nuôi dưỡng; chị H phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh Đ 1.000.000đ/tháng (một triệu đồng một tháng), kể từ tháng 4/2021 đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình.
Chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây anh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Hiện cháu Bảo đang do anh Đ nuôi dưỡng nên chị H không phải giao con chung cho anh Đ.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147, điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Vũ Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số AA/2017/0002528 ngày 15-3-2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Hậu. Chị Vũ Thị H còn phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống Đ bản án hợp lệ.
Bản án 66/2021/HNGĐ-ST ngày 31/03/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn giữa chị H và anh Đ
Số hiệu: | 66/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về