Bản án 66/2020/HS-ST ngày 30/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 66/2020/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 64/2021/HSST ngày 15 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 56/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo: PHẠM THU H; Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày: 28 tháng 9 năm 1993 tại huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai Nơi cư trú: phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Bị cáo có chồng là Chu Đ (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2012. Con ông Phạm Đức T và con bà Phạm Thị H.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 25/3/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

2. Bị cáo: BÙI VIẾT S; Tên gọi khác: Không.

Sinh ngày: 12 tháng 12 năm 1972 tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai Nơi cư trú: phường X, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 08/12; Dân tộc: Kinh;

Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.

Bị cáo chưa có vợ, chưa có con.

Con ông Bùi Hữu Đ và bà Nguyễn Thị N.

Tiền án: 01 tiền án, cụ thể: Ngày 22/11/1997, bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt 07 (bảy) năm tù, phạt bổ sung 40.000.000đồng về tội Mua bán trái phép chất ma túy và Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung, chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tháng 10/2008, bị cáo bị đưa đi cai nghiện tập trung tại Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động xã hội thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Ngày 24/6/2011, bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xử phạt 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, phạt bổ sung 5.000.000đồng về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Ngày 01/11/2017 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và được miễn thi hành khoản tiền phạt.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 26/3/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ 35 phút ngày 25/3/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai, kiểm tra xe ô tô biển kiểm soát 24A - 049.84 tại khu vực đường Châu Úy, tổ 1, phường Nam Cường, thành phố Lào Cai, trên xe có Bùi Tiến Trung ngồi ở vị trí ghế lái; ngồi ghế phụ, bên phải là Bùi Viết S; ngồi ghế sau lái là Phạm Thu H. Thu giữ tại túi áo khoác ngoài, bên phải đang mặc của Phạm Thu H 02 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng và 01 tờ tiền 1.000 đồng gói bên trong các hạt tinh thể rắn, màu trắng; 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thu H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu hồng. Thu giữ của Bùi Viết S 01 chiếc ví màu nâu; 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Viết S;

450.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen.

Phạm Thu H khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 25/3/2021, Phạm Thu H đi xe Taxi đến nhà Bùi Viết S, gặp Sơn và cùng nhau sử dụng ma túy. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, Bùi Viết S lấy trong tủ gỗ ra 01 túi nilon, bên trong có chứa ma túy Methamphetamine đưa cho Phạm Thu H đi bán. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Bùi Viết S thuê anh Bùi Tiến Trung lái xe ô tô biển kiểm soát 24A - 049.84 chở Sơn và Hiền đến khu vực đường Châu Úy, thành phố Lào Cai để bán ma túy. Trên đường đi, Phạm Thu H chia túi ma túy ra thêm hai phần, một phần cho vào 01 túi nilon có mép miết màu xanh, một phần gói vào tờ tiền 1.000 đồng. Sau đó Phạm Thu H cất giấu toàn bộ số ma túy trên vào trong túi áo khoác ngoài, bên phải đang mặc. Đến khoảng 21 giờ 35 phút cùng ngày, bị bắt quả tang cùng tang vật.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Viết S tại tổ 8, phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai. Thu giữ: trên bàn thờ 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng; trên kệ gỗ, trong phòng ngủ 01 hộp nhựa màu xanh bên trong có 01 túi nilon màu trắng chứa các mảnh viên nén và chất bột khô màu hồng; 02 cân tiểu ly; 85 túi nilon màu trắng có mép miết;

7.000.000 đồng , 01 cục gỗ bên trên lắp 01 bình thủy tinh, trên nắp bình thủy tinh có gắn 01 cóng thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa.

Bùi Viết S khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 23/3/2021, người nam giới tên Tuấn (không biết họ, địa chỉ) là bạn của Bùi Viết S, mang ma túy đến nhà Sơn và cùng Sơn sử dụng ma túy. Sau đó Tuấn cho Bùi Viết S 01 túi nilon chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng là ma túy Methamphetamine và 01 túi nilon chứa các mảnh viên nén và chất bột khô màu hồng cũng là ma túy Methamphetamine. Sau khi Tuấn cho ma túy, Bùi Viết S để túi ma túy Methamphetamine (các hạt tinh thể rắn, màu trắng) vào chiếc cốc sứ rồi cất giấu trên bàn thờ; cất giấu túi ma túy Methamphetamine (các mảnh viên nén và chất bột khô màu hồng) vào trong chiếc hộp nhựa màu xanh rồi để trên mặt kệ gỗ trong phòng ngủ, mục đích để sử dụng. Khoảng 17 giờ ngày 25/3/2021, Bùi Viết S lấy một ít ma túy ra sử dụng rồi lại cất vào vị trí cũ. Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 25/3/2021, Phạm Thu H đến. Bùi Viết S rủ Phạm Thu H đi cùng đến đường Châu Úy, tổ 01, phường Nam Cường, thành phố Lào Cai để đòi nợ. Bùi Viết S thuê anh Bùi Tiến Trung chở đi. Đến khoảng 21 giờ 35 phút cùng ngày, Bùi Tiến Sơn và Phạm Thu H bị bắt vì Phạm Thu H cất giấu ma túy trên người. Việc Phạm Thu H cất giấu ma túy trên người Bùi Tiến Sơn không biết, Bùi Tiến Sơn không đưa ma túy cho Phạm Thu H đi bán, không liên quan đến hành vi phạm tội của Phạm Thu H.

Kết luận giám định số 78/GĐMT ngày 28/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 02 túi nilon màu trắng, loại có mép miết màu trắng bên trong mỗi gói có chứa các cục tinh thể rắn, màu trắng thu giữ của Phạm Thu H có tổng khối lượng là 2,45 gam là loại chất ma túy Methamphetamine; 01 túi nilon màu trắng, loại có mép miết màu xanh bên trong có chứa các cục tinh thể rắn, màu trắng thu giữ của Phạm Thu H có tổng khối lượng là 0,26 gam là loại chất ma túy Methamphetamine; 01 túi nilon màu trắng loại có mép miết bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn, màu trắng thu giữ của Bùi Viết S có tổng khối lượng là 1,66 gam là loại chất ma túy Methamphetamine; 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa các mảnh viên nén và chất bột khô màu hồng thu giữ của Bùi Viết S có tổng khối lượng của các mảnh viên nén và chất bột khô màu hồng là 0,06 gam là loại chất ma túy Methamphetamine;

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, tang vật thu giữ và kết luận giám định.

Cáo trạng số 62/CT-VKS-TPLC ngày 14/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai truy tố bị cáo Phạm Thu H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Bùi Viết S về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Thu H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bị cáo Bùi Viết S phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Thu H từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Viết S từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù. Phạt bổ sung bị cáo Bùi Viết S từ 5 triệu đến 10 triệu đồng.

Về vật chứng: Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 2,30 gam ma túy Methamphetamine; 0,20 gam ma túy Methamphetamine (thu giữ của Phạm Thu H), 1,59 (một phẩy năm mươi chín) gam ma túy Methamphetamine (thu giữ của Bùi Viết S) còn lại sau trích mẫu giám định được niêm trong 03 bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai;

01 chiếc cốc bằng sứ, hình đài sen; 01 hộp nhựa màu xanh; 02 cân tiểu ly màu đen;

85 túi nilon màu trắng, có mép miết; 01 cục gỗ bên trên lắp 01 bình thủy tinh, trên nắp bình thủy tinh có gắn 01 cóng thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa, 01 chiếc ví màu nâu. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 1.000đ.

Trả lại cho bị cáo Phạm Thu H 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thu H; Trả lại cho bị cáo Bùi Viết S 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Viết S.

Tiếp tục tạm giữ 01điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu hồng của Phạm Thu H; 01điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu đen và 7.450.000đ của Bùi Viết S để đảm bảo công tác thi hành án.

Tuyên án phí, quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Bị cáo Phạm Thu H, Bùi Viết S nói lời sau cùng: Đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Bùi Thu Hiền khai, bị cáo Bùi Viết S là người đưa ma túy cho bị cáo Hiền mang đi bán kiếm lời. Bị cáo Bùi Viết S không thừa nhận việc này, giữ nguyên lời khai là không đưa ma túy cho bị cáo Hiền, việc bị cáo Hiền cất giấu ma túy trên người bị cáo Sơn không biết. Ngoài lời khai của bị cáo Hiền ra không có tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh việc bị cáo Bùi Viết S đưa ma túy cho bị cáo Bùi Thu Hiền mang đi bán kiếm lời. Vì vậy, không đủ căn cứ kết luận bị cáo Bùi Viết S đồng phạm với bị cáo Phạm Thu H về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận ngày 25/3/2021 bị cáo Phạm Thu H đã có hành vi tàng trữ 2,71 gam ma túy Methamphetamine với mục đích để bán kiếm lời, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Bùi Viết S đã có hành vi tàng trữ 1,72 gam ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo Bùi Viết S đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức và hiểu biết về pháp luật, bản thân là đối tượng sử dụng ma túy, mặc dù biết được việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng các bị cáo thiếu ý thức chấp hành pháp luật, để có tiền tiêu xài và có ma túy sử dụng cho bản thân, bị cáo Phạm Thu H đã cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Bùi Viết S đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Lào Cai; Vì vậy cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật, có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng:

Bị cáo Phạm Thu H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Bùi Viết S, có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Vì tháng 11/1997, bị cáo Bùi Viết S bị xử phạt về tội Mua bán trái phép chất ma túy và Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, nhưng bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung, nên bị cáo chưa được xóa án tích. Do đó, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng“Tái phạm. Ngoài ra bị cáo Bùi Viết S là người có nhân thân xấu, bị cáo đã có 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy, 01 tiền sự về cai nghiện tập trung.

Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo Phạm Thu H có ông nội là Phạm Trọng Thể được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba; Bị cáo Bùi Viết S có mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba. Đây là tình tiết giảm nhẹ nên quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự mà các bị cáo được hưởng khoan hồng của pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nhân thân của bị cáo thấy rằng: Hành vi phạm tội của các bị cáo cần áp dụng hình phạt tù, có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Đối với bị cáo Bùi Viết S cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Đối với bị cáo Phạm Thu H, xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, vì vậy Hội đồng xét xử không phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

Đối với số ma túy Methamphetamine còn lại sau trích mẫu giám định, được niêm trong 03 bì thư in sẵn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai; 01 chiếc cốc bằng sứ, hình đài sen; 01 hộp nhựa màu xanh; 02 cân tiểu ly màu đen; 85 túi nilon màu trắng, có mép miết; 01 cục gỗ bên trên lắp 01 bình thủy tinh, trên nắp bình thủy tinh có gắn 01 cóng thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa; 01chiếc ví màu nâu. Xét thấy đây thuộc danh mục các chất Nhà nước cấm lưu hành và là những vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 tờ tiền 1.000 đồng cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu hồng tạm giữ của Phạm Thu H; 7.450.000 đồng; 01điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu đen của Bùi Viết S là những tài sản của các bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho các bị cáo, tuy nhiên các bị cáo còn phải thi hành khoản tiền án phí và tiền phạt bổ sung. Vì vậy tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thu H, 01chứng minh nhân dân mang tên Bùi Viết S là giấy tờ tùy thân của các bị cáo, trả lại cho các bị cáo

[7] Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Phạm Thu H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bị cáo Phạm Thu H 02 (Hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo, ngày 25/3/2021.

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Bùi Viết S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Bùi Viết S 02 (Hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ bị cáo, ngày 26/3/2021. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000 (Mười triệu đồng) nộp Ngân sách Nhà nước.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 2,30 và 0,20 gam Methamphetaminegam Methamphetamine được niêm phong trong một bì thư in sẵn của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Tại mép dán của bì niêm phong mới này có chữ ký ghi rõ họ tên của những người tham gia niêm phong, người bị bắt, hình dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai và được dán phủ bằng lớp băng dính trong suốt. Trên một mặt của bì niêm phong mới này có ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi bắt quả tang Phạm Thu H và Bùi Viết S ngày 25/3/2021 tại tổ 01, phường Nam Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”;

1,59 (một phẩy năm mươi chín) gam Methamphetamine được niêm phong trong một bì thư in sẵn của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Tại mép dán của bì niêm phong mới này có chữ ký ghi rõ họ tên của những người tham gia niêm phong, người bị bắt, hình dấu tròn đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai và được dán phủ bằng lớp băng dính trong suốt. Trên một mặt của bì niêm phong mới này chí ghi “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi khám xét nơi ở của Bùi Viết S ngày 25/3/2021 tại tổ 8, phường Xuân Tăng, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai”; 01 chiếc cốc hình đài sen bằng sứ; 01 hộp nhựa màu xanh; 02 cân tiểu ly màu đen; 85 túi nilon màu trắng, có mép miết; 01 cục gỗ hình hai con cá voi, bên trên có gắn 01 bình thủy tinh, trên nắp bình có gắn 01 cóng thủy tinh và 01 đoạn ống hút nhựa; 01 ví giả da màu nâu.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 tờ tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.000 đồng (một nghìn đồng).

Trả lại cho bị cáo Phạm Thu H 01 chứng minh nhân dân mang tên Phạm Thu H. Trả lại cho bị cáo Bùi Viết S 01chứng minh nhân dân mang tên Bùi Viết S.

Tiếp tục tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S, màu hồng, có số Imei 355763072825908 của Phạm Thu H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, màu đen, có số Imei 868683048036796 và tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam 7.450.000đ (Bẩy triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) của Bùi Viết S để đảm bảo công tác thi hành án.

(Vật chứng thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/6/2021)

3. Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội buộc bị cáo Phạm Thu H và bị cáo Bùi Viết S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự: thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự".

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HS-ST ngày 30/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:66/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về