Bản án 66/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 66/2020/HS-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 75/2020/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2020/QĐST- HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Phan T, sinh năm 1983, tại tỉnh Tây Ninh; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: ấp B, xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan D (đã chết) và bà Phạm H (đã chết); vợ: Nguyễn C; con:

01 người; tiền sự: không có; tiền án: Bản án số 19/2006/HSST ngày 11-4-2006 của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chưa nộp tiền thu lợi bất chính; bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Dương Minh Châu tạm giữ ngày 29-9-2020 đến ngày 08-10-2020 chuyển sang tạm giam cho đến nay.

Bị hại:

- Anh Nguyễn M, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp B, xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 24-9-2020, Phan T đi làm thuê về và ghé vào nhà ông Nguyễn D, sinh năm 1974, ngụ ấp B, xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh để xin nước để uống. Khi T vào nhà ông D thì thấy anh Nguyễn M (con ông D) đang nằm ngủ trên võng và có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS 64GB đang cắm sạc để trên dép nằm dưới nền nhà. Lúc này, T nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại di động bán lấy tiền tiêu xài nên lấy điện thoại bỏ vào túi quần đang mặc rồi đi về. Sau đó, T đi đến quán nước của bà Trần C, sinh năm 1959, ngụ ấp B, xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh thì bà C đòi 100.000 đồng đã nợ; T lấy điện thoại ra cầm cố cho bà C 1.000.000 đồng nhưng chỉ nhận 900.000 đồng. Đến khoảng 16 giờ ngày 26-9- 2020, bà C không mở được điện thoại nên nhờ Lê H đem đi sửa. Đến khoảng 09 giờ ngày 27-9-2020, Lê H rủ Đặng A đến nhà H uống rượu. Trong lúc uống rượu, H có lấy điện thoại mà bà C nhờ sửa ra xem lúc này A thấy màn hình điện thoại hiện thị hình nền của M, do A và M quen nhau trước nên điện thoại hỏi có làm rơi điện thoại không thì M trả lời là có. Với mục đích muốn rủ M đến để uống rượu chung nên sau khi nghe M trả lời có mất điện thoại nên A kêu M đến để chuộc điện thoại về. Sau đó, M đến trụ sở Công an xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh trình báo sự việc.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Phan T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 21 ngày 29-9-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Huyện Dương Minh Châu kết luận:

01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS 64GB, tại thời điểm ngày 24-9-2020, có giá trị là 9.200.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn M đã nhận lại điện thoại bị mất trộm nên không có yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Với nội dung trên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu đã truy tố bị cáo Phan T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng số 76/CT- VKSDMC ngày 23-11-2020, truy tố bị cáo Phan T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Phan T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự;

Áp dụng tình tiết giảm nhẹ điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự Căn cứ khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan T mức án 12 tháng tù đến 15 tháng tù; vật chứng vụ án đã xử lý xong trả lại cho bị hại.

Bị cáo nói lời sau cùng: “Kính thưa Hội đồng xét xử, bị cáo đã biết lỗi của bị cáo, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình”.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của hành vi, Quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an Huyện Dương Minh Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có kH nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Khoảng 13 giờ ngày 24-9-2020, Phan T đến nhà ông Nguyễn D, ngụ ấp B, xã M, Huyện D, tỉnh Tây Ninh đã lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS 64GB của anh Nguyễn M, tài sản có giá trị 9.200.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận bị cáo Phan T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, do lười lao động, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động nặng nhọc nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Về tính tiết tăng nặng: Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, lần này phạm tội là tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Các biện pháp tư pháp:

- Xử lý vật chứng: Đã trả lại tài sản cho bị hại xong, bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

[8] Về án phí: Bị cáo Phan T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự :

Tuyên bố bị cáo Phan T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo Phan T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 29-9- 2020.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 106, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự ; Điều 47 của Bộ Luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ghi nhận anh Nguyễn M đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Về án phí: Bị cáo Phan T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:66/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về